Các nhà kinh tế đóng hai vai trò. Là nhà khoa học, họxây dựng và thửnghiệm các lý
thuyết đểlý giải thếgiới xung quanh mình. Là nhà hoạch định chính sách, họsửdụng lý
thuyết của mình với mục đích làm cho thếgiới trởnên tốt đẹp hơn. Hai chương vừa qua
đã tập trung vào vai trò nhà khoa học. Chúng ta đã thấy cung và cầu quyết định giá cảvà
lượng hàng hóa bán ra nhưthếnào. Chúng ta cũng đã thấy các sựkiện khác nhau làm
thay đổi cung và cầu, qua đó làm thay đổi giá và lượng cân bằng nhưthếnào.
Chương này đem lại cho chúng ta một cái nhìn ban đầu vềchính sách. Ở đây, chúng ta phân
tích các loại chính sách khác nhau của chính phủhoàn toàn bằng công cụcung và cầu. Như
các bạn sẽthấy, phương pháp phân tích này đem lại một sốhiểu biết đáng ngạc nhiên. Các
chính sách thường gây ra các hậu quảmà các nhà hoạch định ra chúng không mong đợi hay
dựkiến trước.
17 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 2770 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Kinh tế vĩ mô I - Chương 4: Cung, cầu và chính sách của chính phủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ượng bán ra
của nó giảm khi thị trường đạt trạng thái cân bằng mới.
- Người mua và người bán cùng chia sẻ gánh nặng thuế. Trong trạng thái cân bằng mới,
giá mà người mua phải trả cao hơn và giá mà người bán được nhận thấp hơn.
Tác động của thuế đánh vào người bán đến kết cục thị trường
Bây giờ chúng ta hãy xem xét trường hợp thuế đánh vào người bán. Giả sử chính quyền địa
phương thông qua một đạo luật quy định những người bán kem phải nộp 0,5 đô la cho chính
phủ đối với mỗi chiếc kem họ bán. Đạo luật đó gây ra những tác động gì?
Giá kem
2.8
3.0
$3.3
D1
D2
0 90 100 Lượng kem
S1
Cân bằng
sau thuế
Thuế (0,5$)
Giá người
mua trả
Giá không
thuế
Giá người
bán nhận
Cân bằng
trước thuế
Thuế đánh vào
người mua làm
dịch chuyển
đường cầu xuống
dưới một lượng
đúng bằng thuế
(0,50 đô la)
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 13
Trong trường hợp này, trước hết thuế tác động vào cung về kem. Do thuế không đánh vào
người mua, nên lượng cầu về kem tại mọi mức giá vẫn như cũ, do đó đường cầu không thay
đổi. Ngược lại, khi thuế đánh vào người bán, chi phí bán kem tăng và người bán cung ứng
lượng kem ít hơn tại mọi mức giá. Đường cung dịch chuyển sang trái (hay lên trên).
Một lần nữa, chúng ta có thể tính toán chính xác quy mô của sự dịch chuyển. Đối với bất kỳ
mức giá thị trường nào của kem, giá mà người bán thực sự nhận được - tức số tiền họ được
phép giữ lại sau khi nộp thuế - thấp hơn so với trước là 0,5 đô la. Ví dụ, nếu giá thị trường
của một chiếc kem là 2 đô la, giá người bán thực sự nhận được sẽ là 1,5 đô la. Cho dù giá thị
trường là bao nhiêu, thì người bán cũng chỉ cung ứng một lượng kem như trong trường hợp
giá thị trường giảm 0,5 đô la. Nói cách khác, để làm cho người bán cung ứng bất kỳ lượng
nào, giá thị trường bây giờ cũng phải cao hơn 0,5 đô la để bù lại điểm rơi của thuế. Do đó
như được chỉ ra trong hình 7, đường cung dịch chuyển lên trên một đoạn bằng đúng mức thuế
(0,5 đô la), tức từ S1 tới S2.
Khi thị trường chuyển từ trạng thái cân bằng cũ sang trạng thái cân bằng mới, giá kem cân
bằng tăng từ 3 đô la lên 3,3 đô la và lượng cân bằng giảm từ 100 xuống còn 90 chiếc kem.
Một lần nữa, thuế lại làm giảm quy mô thị trường kem. Và lần này cũng vậy, người mua và
người bán cùng chia sẻ gánh nặng thuế. Do giá thị trường tăng, người mua phải trả thêm 0,3
đô la cho mỗi chiếc kem mà họ mua so với trước khi có thuế. Người bán nhận được giá cao
hơn so với trước khi có thuế, nhưng giá thực sự (sau khi đóng thuế) giảm từ 3 đô la xuống
còn 2,8 đô la.
So sánh hình 6 và 6.7, chúng ta đi đến một kết luận đáng ngạc nhiên: Thuế đánh vào
người mua và thuế đánh vào người bán tương đương nhau. Trong cả hai trường hợp, thuế
đều đặt một chiếc nêm vào giữa giá mà người mua trả và giá mà người bán nhận được.
Chiếc nêm này không thay đổi, cho dù thuế được đánh vào người mua hay người bán.
Trong cả hai trường hợp, nó đều làm dịch chuyển vị trí tương đối của đường cung và
đường cầu. Tại điểm cân bằng mới, người mua và người bán cùng chia sẻ gánh nặng thuế.
Điểm khác biệt duy nhất giữa thuế đánh vào người mua và thuế đánh vào người bán là ở
người nộp thuế cho chính phủ.
Tính tương đương của hai loại thuế này có lẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta tưởng tượng rằng
chính phủ thu thuế 0,5 đô la một chiếc kem bằng cách đặt một cái bát tại mỗi quầy bán kem.
Khi chính phủ đánh thuế vào người mua, người mua được yêu cầu bỏ 0,5 đô la vào bát khi họ
mua một chiếc kem. Khi chính phủ đánh thuế vào người bán, người bán được yêu cầu bỏ 0,5
đô la vào bát mỗi khi họ bán một chiếc kem. Việc 0,5 đô la đi trực tiếp từ ví của người mua
vào bát, hay gián tiếp từ ví người mua qua tay người bán rồi vào bát đều có ảnh hưởng như
nhau. Khi thị trường đạt đến điểm cân bằng mới, người mua và người bán cùng nhau chia sẻ
gánh nặng thuế, việc đánh thuế như thế nào không quan trọng.
Giá kem
2.8
3.0
$3.3
D1
S2
S1
Cân bằng
sau thuế
Thuế (0,5$) Giá người mua trả
Giá không
thuế
Giá người
bán nhận
Cân bằng
trước thuế
Thuế đánh vào
người bán làm dịch
chuyển đường cung
lên trên một lượng
đúng bằng mức thuế
(0,50 đô la)
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 14
Hình 7. Thuế đánh vào người bán. Khi mức thuế 0,5 đô la đánh vào người bán, đường cung
dịch chuyển lên trên 0,5 đô la, tức từ S1 lên S2. Lượng cân bằng giảm từ 100 xuống 90 chiếc
kem. Giá người mua phải trả tăng từ 3 lên 3,3 đô la. Giá người bán nhận được (sau khi nộp
thuế) giảm từ 3 xuống 2,8 đô la. Cho dù là thuế đánh vào người bán hay người mua, thì cả
người mua và người bán đều chia sẻ gánh nặng thuế
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: QUỐC HỘI CÓ THỂ PHÂN CHIA GÁNH NẶNG THUẾ
TIỀN LƯƠNG KHÔNG?
Nếu đã từng nhận được một tấm séc trả lương, bạn có thể thấy rằng thuế được khấu trừ đi
từ số tiền bạn kiếm được. Một trong các loại thuế đó được gọi là FICA, chữ viết tắt của
Đạo luật về Đóng góp bảo hiểm Liên bang. Chính phủ Liên bang sử dụng nguồn thu từ
thuế FICA để chi trả bảo hiểm xã hội, y tế, hỗ trợ thu nhập và các chương trình chăm sóc
sức khỏe cho người già. FICA là một ví dụ về thuế đánh vào tiền lương, vì nó đánh vào
tiền lương mà các doanh nghiệp trả cho công nhân của họ. Năm 1995, tổng nguồn thu từ
thuế FICA đánh vào một công nhân điển hình bằng 15,3% thu nhập từ tiền lương.
Bạn nghĩ ai phải chịu gánh nặng thuế đánh vào tiền lương này - doanh nghiệp hay người lao
động? Khi phê chuẩn đạo luật về thuế tiền lương, Quốc hội tìm cách phân chia gánh nặng
thuế. Vì vậy, Quốc hội quy định một nửa số thuế do doanh nghiệp trả và nửa còn lại do người
lao động trả. Nghĩa là một nửa số thuế được thu từ doanh thu của doanh nghiệp, còn nửa kia
được khấu trừ vào tiền lương của công nhân. Số tiền khấu trừ trên cuống séc tiền lương của
bạn là phần đóng góp của người lao động.
Song phân tích của chúng ta về ảnh hưởng của thuế chỉ ra rằng các nhà làm luật không thể
phân bổ gánh nặng thuế dễ dàng như vậy. Để minh họa, chúng ta có thể phân tích thuế
tiền lương giống như là một loại thuế hàng hóa, trong đó hàng hóa là lao động, còn giá cả
là tiền lương. Đặc điểm then chốt của thuế tiền lương là nó đặt một chiếc nêm vào giữa
tiền lương mà doanh nghiệp trả và tiền lương mà người lao động nhận được. Hình 8 chỉ ra
kết cục này. Khi loại thuế tiền lương có hiệu lực, tiền lương mà người lao động nhận
được giảm đi và tiền lương mà doanh nghiệp phải trả tăng lên. Cuối cùng thì người lao
động và doanh nghiệp cùng chia sẻ gánh nặng thuế đúng như luật quy định. Nhưng việc
phân chia gánh nặng thuế này giữa người lao động và doanh nghiệp chẳng có gì liên quan
tới sự phân chia theo luật quy định: Sự phân chia gánh nặng thuế trong hình 8 không nhất
thiết phải là 50-50, và kết quả tương tự cũng sẽ xảy ra nếu đạo luật này yêu cầu người lao
động nộp toàn bộ tiền thuế hay doanh nghiệp nộp toàn bộ thuế tiền thuế.
Ví dụ trên chỉ ra rằng bài học cơ bản nhất về ảnh hưởng của thuế thường bị bỏ qua trong các
cuộc tranh luận công khai. Các nhà làm luật có thể quyết định việc thuế lấy từ ví người mua
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 15
Lượng công nhân
Cầu về lao
động
Chiếc nêm
thuế
Cung về
lao động
Tiền lương
Tiền lương do doanh
nghiệp trả
Tiền lương
không thuế
Tiền lương người lao
động nhận được
hay người bán, nhưng họ không quyết định được sự phân chia gánh nặng thuế. Trên thực tế,
ảnh hưởng của thuế phụ thuộc vào các lực lượng cung cầu.
Hình 8. Thuế tiền lương. Thuế lương đặt một chiếc nêm vào giữa tiền lương người lao động
nhận được và tiền lương doanh nghiệp trả. Khi so sánh tiền lương có thuế và không thuế, bạn
nhận thấy rằng người lao động và doanh nghiệp cùng chia sẻ gánh nặng thuế. Việc phân
chia gánh nặng thuế giữa người lao động và doanh nghiệp không phụ thuộc vào việc vào việc
chính phủ đánh thuế vào người lao động hay doanh nghiệp, hoặc phân chia thuế thành hai
phần bằng nhau cho hai nhóm người này.
Hệ số co giãn và điểm rơi của thuế
Khi một hàng hóa bị đánh thuế, cả người mua và người bán cùng chia sẻ gánh nặng thuế.
Nhưng thực ra gánh nặng thuế được phân chia như thế nào? Rất hiếm khi nó được chia đều
cho các bên. Để biết gánh nặng này được chia sẻ như thế nào, chúng ta cùng xem xét ảnh
hưởng của thuế tới hai thị trường trong hình. Trong cả hai trường hợp, hình này chỉ ra đường
cầu ban đầu, đường cung ban đầu và một mức thuế chèn chiếc nêm giá vào giữa số tiền người
mua phải trả và số tiền người bán nhận được. (Trong cả hai phần hình 9, chúng ta không vẽ
đường cung và đường cầu mới. Việc đường nào dịch chuyển phụ thuộc vào chỗ thuế đánh
vào người mua hay người bán. Như chúng ta thấy, điều này không liên quan tới điểm rơi của
thuế). Sự khác biệt giữa hai phần là hệ số co giãn tương đối của cung và cầu.
Phần (a) của hình 9 minh họa cho một loại thuế trên thị trường có cung rất co giãn và cầu
tương đối không co giãn. Trong tình huống này, người bán phản ứng mạnh đối với giá cả
trong khi người mua ít phản ứng đối với giá cả. Khi một loại thuế được áp dụng trong thị
trường có hệ số co giãn như vậy, giá người bán thu được không giảm nhiều, nên người bán
chỉ phải chịu một phần nhỏ của gánh nặng thuế. Ngược lại, giá người mua phải trả tăng
đáng kể và điều này cho thấy người mua chịu phần lớn gánh nặng thuế.
Cung
Cầu
Lượng
Giá
Giá người
mua trả
Giá không
thuế
Giá người
bán nhận
Thuế
3... là đánh
vào người
bán
2 gánh nặng
của thuế rơi vào
người mua nhiều
hơn
1. Khi cung co
giãn nhiều hơn
cầu ...
(a) Cung co giãn, cầu ít co giãn
Cung
Giá
1. Khi cầu co giãn nhiều hơn cung ...
(b) Cung ít co giãn, cầu co giãn
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 16
Hình 9. Gánh nặng thuế được phân chia như thế nào. Trong phần (a), đường cung co giãn còn
đường cầu không co giãn. Trong trường hợp này, giá người bán nhận được giảm ít trong khi giá
người mua phải trả tăng nhiều. Do đó, người mua chịu phần lớn gánh nặng thuế. Trong phần (b),
đường cung ít co giãn còn đường cầu co giãn. Trong trường hợp này, giá người bán nhận được giảm
nhiều trong khi giá người mua phải trả tăng ít. Cho nên, người bán chịu phần lớn gánh nặng thuế.
Phần (b) của hình 9 minh họa cho một loại thuế trong thị trường có cung tương đối không co
giãn và cầu rất co giãn. Trong trường hợp này, người bán rất ít phản ứng mạnh đối với giá,
nhưng người mua lại phản ứng mạnh. Hình này cho thấy khi có thuế, giá người mua phải trả
không tăng nhiều lắm, trong khi giá người bán nhận được lại giảm mạnh. Cho nên, người bán
phải chịu hầu hết gánh nặng thuế.
Hai phần của hình 9 nêu ra một bài học chung về cách phân chia gánh nặng thuế. Gánh nặng thuế
nghiêng nhiều về bên thị trường ít co giãn hơn. Tại sao điều này đúng? Về bản chất, hệ số co giãn
phản ánh sự sẵn sàng rời bỏ thị trường của người mua và người bán khi điều kiện thị trường trở
nên bất lợi. Cầu không co giãn hàm ý người mua không có các phương án tốt thay thế cho việc
tiêu dùng hàng hóa này. Cung ít co giãn hàm ý người bán không có các phương án tốt thay thế
cho việc sản xuất hàng hóa này. Khi hàng hóa bị đánh thuế, bên thị trường có ít sự lựa chọn hơn
không thể dễ dàng rời bỏ thị trường và do đó phải chịu gánh nặng thuế lớn hơn.
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: AI CHỊU THUẾ ĐÁNH VÀO HÀNG XA XỈ?
Vào năm 1990, Quốc hội thông qua đạo luật thuế mới đánh vào các mặt hàng xa xỉ như du
thuyền, máy bay tư nhân, đồ lông thú, đồ trang sức và xe hơi đắt tiền. Mục đích của loại thuế
này là tăng nguồn thu từ những người có khả năng nộp thuế. Bởi vì chỉ những người giàu mới
có thể mua những đồ xa xỉ, nên đánh thuế vào hàng xa xỉ dường như là một lô gic hợp lý khi
người ta muốn đánh thuế vào người giàu.
Thế nhưng, do ảnh hưởng của các lực lượng cung và cầu, kết quả lại không như Quốc hội dự
kiến. Ví dụ, chúng ta hãy xem xét thị trường du thuyền. Cầu về du thuyền tương đối co giãn.
Một triệu phú có thể dễ dàng không mua du thuyền nữa, mà dùng số tiền đó để mua một ngôi
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 17
nhà lớn hơn, đi du lịch châu Âu, hay để lại thừa kế của cải nhiều hơn cho con cháu. Ngược
lại, cung về du thuyền không co giãn, ít nhất là trong ngắn hạn. Các nhà máy sản xuất du
thuyền không dễ dàng chuyển sang hoạt động sản xuất khác, còn công nhân đóng du thuyền
thì không sẵn sàng đổi nghề để đáp lại điều kiện thay đổi của thị trường.
Phân tích của chúng ta đưa ra một dự báo rõ ràng trong trường hợp này. Với cầu co giãn và
cung ít co giãn, gánh nặng thuế chủ yếu đổ lên đầu các nhà cung cấp. Nghĩa là thuế đánh vào
du thuyền đặt gánh nặng chủ yếu lên vai các doanh nghiệp và công nhân sản xuất du thuyền,
bởi vì cuối cùng họ thu được giá thấp hơn cho sản phẩm của mình. Song công nhân không
phải là người giàu có. Do đó, gánh nặng của thuế đánh vào hàng xa xỉ rơi vào tầng lớp trung
lưu, chứ không phải là những người giàu.
Những giả định sai lầm về ảnh hưởng của thuế đánh vào hàng xa xỉ nhanh chóng trở nên rõ
ràng sau khi đạo luật thuế này có hiệu lực. Các nhà cung cấp hàng hóa xa xỉ đã làm cho đại
diện của họ trong Quốc hội nhận thức được khó khăn mà họ phải trải qua và Quốc hội đã bãi
bỏ hầu hết luật thuế đánh vào hàng xa xỉ vào năm 1993.
Kiểm tra nhanh: Trong đồ thị cung cầu, hãy chỉ rõ tác động của mức thuế 1.000 đô la/ một
chiếc xe đánh vào người mua xe đối với số lượng xe bán ra và giá của chúng. Bằng một đồ
thị khác, hãy chỉ ra tác động của mức thuế 1.000 đô la một chiếc xe đánh vào người bán đối
với số lượng xe bán ra và giá cả của chúng. Trong cả hai đồ thị, hãy chỉ ra sự thay đổi giá
cả mà người mua xe phải trả và sự thay đổi giá cả mà người bán xe nhận được.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế do hai loại luật chi phối: luật cung cầu và luật do chính phủ đưa ra. Trong
chương này, chúng ta đã bắt đầu tìm hiểu xem các luật này tương tác như thế nào. Kiểm soát
giá và thuế mang tính phổ biến trong các thị trường khác nhau, và ảnh hưởng của chúng
thường được báo chí và các nhà hoạch định chính sách tranh luận. Chỉ cần một chút kiến thức
kinh tế là có thể hiểu và đánh giá được các chính sách này.
Trong các chương sau, chúng ta sẽ phân tích chính sách của chính phủ một cách chi tiết hơn.
Chúng ta sẽ xem xét các ảnh hưởng của thuế đầy đủ hơn và nghiên cứu nhiều loại chính sách
hơn so với chúng ta đã làm trong chương này. Song các bài học cơ bản của chương này sẽ
không thay đổi: Khi phân tích các chính sách của chính phủ, thì cung và cầu là những công
cụ phân tích đầu tiên và hữu hiệu nhất.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_4_cung_cau_va_chinh_sach_cua_chinh_phu_9406.pdf