Bài viết cung cấp một “bức tranh” toàn cảnh về tình hình kinh tế vĩ mô của thế giới và Việt Nam năm 2016
và dự báo triển vọng năm 2017, từ đó đưa ra một số gợi ý về giải pháp chính sách cho Việt Nam. Với những
diễn biến khó lường của kinh tế toàn cầu và những khó khăn đang phải đối mặt trong nước, Việt Nam cần có những giải pháp ứng phó linh hoạt, đặc biệt là giải pháp cho điều hành tỷ giá, quyết tâm cao và hành động quyết liệt trên thực tế để có thể thực hiện được các mục tiêu về tăng trưởng và lạm phát như đã đề ra; tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện môi trường kinh doanh và thực hiện mạnh mẽ các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng minh bạch và bình đẳng hơn; đẩy mạnh các hoạt động thuận lợi hóa thương mại và tận dụng cơ hội mới để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho xây dựng cơ sở hạ tầng; các doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc và các nước Đông Á, tập trung vào thị trường EU, tìm hiểu để thâm nhập các thị trường ngách trong EU và kết nối thương mại với các nước đối tác FTA của EU. Bên cạnh đó, cũng cần tính đến việc xây dựng các chính sách ngành tích cực hơn nhằm tận dụng những cơ hội phát triển mới của nền kinh tế thế giới.
11 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 435 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2016, triển vọng năm 2017 và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để ổn
định tỷ giá.
Lãi suất năm 2017 sẽ khó giảm vì áp lực
của lạm phát và nợ xấu vẫn chưa được giải
quyết triệt để. Nếu không giải quyết triệt để vấn
đề nợ xấu, sẽ không thể giảm lãi suất và khó có
thể thúc đẩy tăng trưởng nhanh.
3.3. Một số gợi chính sách cho Việt Nam
Cả hai mục tiêu về lạm phát (4%) và tăng
trưởng (6,7%) đều mang tính thách thức do các
yếu tố bất lợi trong và ngoài nước. Do vậy, bên
cạnh các giải pháp đang được thực hiện, đòi hỏi
quyết tâm cao và hành động phải rất thực tế,
quyết liệt (quyết liệt triển khai và tăng cường
giám sát, đánh giá). Trong đó, cần tập trung vào
những giải pháp sau:
Thứ nhất, cần đưa ra các kịch bản khác
nhau đối với quản lý tỷ giá hối đoái, mục tiêu là
ổn định nhưng linh hoạt và chủ động, sẵn sàng
trong những tình huống xấu nhất. Lý do: (i) Bên
ngoài: Đôla Mỹ tăng giá và dòng vốn quay về
Mỹ do FED tăng lãi suất; thương mại thế giới
tiếp tục tăng trưởng chậm; Mỹ và các nước
Châu Âu tăng trưởng ở mức vừa phải; các nước
gia tăng các biện pháp bảo hộ thương mại, kể cả
phá giá đồng nội tệ; 20 năm sau khủng hoảng
tài chính-tiền tệ Châu Á 1997-1998 vẫn cho
thấy khủng hoảng về tỷ giá sẽ châm ngòi cho
khủng khoảng tiền tệ và ngân hàng (ii) Trong
nước: Giảm kỳ vọng do việc thông qua TPP có
thể bị hủy bỏ hoặc trì hoãn; tình trạng đôla hóa
và tâm lý tìm nơi trú ẩn an toàn (USD) khi bất
ổn vĩ mô xảy ra; lạm phát có xu hướng tăng; nợ
công (dự báo đạt 64,98% năm 2016 và 64,8%
năm 2017, nếu tăng trưởng đạt mục tiêu, trong
khi giới hạn là 65%; 43% nợ công tính đến
ngày 31/12/2015 là nợ nước ngoài, trong đó
44% nợ bằng USD) và nợ xấu cao cùng với sự
yếu kém của hệ thống ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước cần điều hành tín
dụng theo hướng kiểm soát tăng trưởng tín
dụng hợp lý, cần thận trọng với việc kiểm soát
chính sách cung tiền ở mức phù hợp nhằm tránh
nguy cơ tiềm ẩn rủi ro lạm phát có thể gia tăng.
Trước áp lực về việc FED tăng lãi suất và đồng
USD có xu hướng tăng giá so với hầu hết các
đồng tiền mạnh khác, Ngân hàng Nhà nước cần
thực hiện đồng bộ các biện pháp và công cụ
N.H. Sơn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 4 (2016) 1-11 9
chính sách tiền tệ, sẵn sàng sử dụng nguồn dự
trữ ngoại hối để kịp thời can thiệp vào thị
trường ngoại tệ, nhằm ổn định tỷ giá trong biên
độ cho phép. Tuy nhiên, việc điều hành tỷ giá
cần tiếp tục chủ động, linh hoạt theo tín hiệu thị
trường, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô
nhằm đảm bảo cân đối bên trong và bên ngoài
của nền kinh tế. Phương thức điều hành “tỷ giá
bò trườn” (Crawling Peg) với biên độ giao động
hiện nay là phù hợp và nên đặt mục tiêu không
quá 2-3% năm (0,2-0,3%/tháng).
Thứ hai, cần tiếp tục quyết liệt thực hiện
Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp, đặc biệt là công bố chương trình
hành động của các Bộ, ngành và tăng cường
giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết
trên thực tế. Những vấn đề liên quan đến các ưu
đãi đối với doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
trong nước cần được kiểm soát chặt chẽ nhằm
tăng cường tỷ trọng thương mại của doanh
nghiệp trong nước. Đồng thời, cần tiếp tục có sự
tiếp sức về chính sách của Chính phủ, đẩy nhanh
tiến độ xây dựng Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa, đặc biệt là hỗ trợ về nguồn vốn.
Thứ ba, cần tiếp tục quyết liệt thực hiện
Nghị quyết 19/NQ-CP về cải thiện môi trường
kinh doanh, trong đó đặc biệt là giảm bớt các
hoạt động chồng chéo trong thanh tra, kiểm tra
và tần suất của thanh tra, kiểm tra; rà soát và
kiểm tra lại thông tin các doanh nghiệp vừa và
nhỏ vẫn tiếp tục tiếp cận vốn khó khăn do
không có tài sản thế chấp (40% doanh nghiệp
siêu nhỏ; 74% doanh nghiệp quy mô vừa và
81% doanh nghiệp lớn theo điều tra của VCCI);
triệt để chống gian lận thương mại, hàng giả,
hàng nhái
Thứ tư, cần đẩy mạnh các hoạt động thuận
lợi hóa thương mại trong khuôn khổ các hiệp
định thương mại đã được ký kết, đặc biệt là với
ASEAN, cụ thể như cơ chế Hải quan một cửa
ASEAN, đánh giá việc thực hiện cơ chế này bởi
sự phối hợp của các Bộ như Bộ Kế hoạch Đầu
tư, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, Bộ Y tế). Cần chủ
động thực hiện các biện pháp, chính sách để cân
bằng cán cân thương mại với Mỹ. Hiện nay,
thặng dư thương mại với Mỹ cao không phải là
điều tốt cho quan hệ thương mại lâu dài. Việt
Nam nên chủ động phát triển thị trường nhập
khẩu hàng hóa Mỹ để nâng cao năng lực sản
xuất trong nước, đồng thời gắn kết sâu hơn vào
chuỗi cung ứng toàn cầu. Thêm vào đó, sự
nhanh chóng, minh bạch trong thông tin, đặc
biệt là những ưu đãi liên quan đến các FTA mới
được ký kết cần được phổ biến rộng rãi đến
cộng đồng doanh nghiệp.
Thứ năm, để giảm bội chi ngân sách Nhà
nước và tăng cường đảm bảo an ninh tài chính
quốc gia, cần giám sát việc vay, sử dụng vốn
vay và trả nợ của chính quyền địa phương và
các quỹ đầu tư có nguồn gốc từ ngân sách Nhà
nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nước
ngoài của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ sáu, tuy chưa có hiệu lực, song hiệp
định TPP đã tạo hiệu ứng khá mạnh về dịch
chuyển các dòng vốn đầu tư quốc tế hướng vào
khu vực TPP. Đây là cơ hội thuận lợi để Việt
Nam thúc đẩy thu hút FDI từ các nước trong và
ngoài khu vực TPP. Ngay cả trong trường hợp
TPP đóng băng hay chậm trễ thì Việt Nam vẫn
cần thể hiện quyết tâm cải cách môi trường đầu
tư theo hướng cam kết TPP; và do đó khả năng
thu hút FDI trong trung và dài hạn được dự báo
vẫn gia tăng.
Thứ bảy, đầu tư cơ sở hạ tầng ngày càng thu
hút sự quan tâm của nhiều tổ chức quốc tế, các
quốc gia và doanh nhân quốc tế. Đây là điểm
thuận lợi mà Việt Nam cần tranh thủ huy động
các nguồn vốn mới từ bên ngoài để phát triển
cơ sở hạ tầng, nhất là vốn mới từ các tổ chức tài
chính đa phương và các nhà đầu tư nước ngoài.
Muốn vậy, Việt Nam cần chủ động: (i) Rà soát,
đề xuất các dự án cơ sở hạ tầng khả thi, phù hợp
với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội để vận động, tranh thủ các nguồn vốn mới
cho cơ sở hạ tầng từ các tổ chức tài chính đa
phương cũng như trong các khuôn khổ liên kết,
hợp tác khu vực, tiểu vùng và song phương; (ii)
Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế chính sách về
hợp tác đối tác công - tư (PPP) nhằm tạo môi
trường đủ sức hấp dẫn để thu hút doanh nghiệp
trong và ngoài nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
N.H. Sơn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 4 (2016) 1-11
10
Thứ tám, cần rà soát lại cách thức huy động
vốn của một số doanh nghiệp tư nhân lớn kinh
doanh bất động sản và cho vay tiêu dùng của
các ngân hàng (liên quan đến bất động sản) để
đề phòng trường hợp các doanh nghiệp này
không bán được sản phẩm, dẫn đến nợ xấu ngân
hàng gia tăng và các rủi ro khó lường khác.
Thứ chín, bên cạnh việc cải thiện môi
trường đầu tư, cải cách hành chính, tăng cường
hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích khởi
nghiệp, cần tính đến việc xây dựng những
chính sách phát triển ngành chủ động hơn, bắt
nhịp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế
giới như cách mạng công nghệ 4.0 (ngành du
lịch, nông nghiệp công nghệ cao...).
Thứ mười, các doanh nghiệp cần chủ động
nắm bắt thông tin về các ưu đãi từ các FTA, đa
dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, giảm bớt
sự phụ thuộc vào Trung Quốc nói riêng và các
nước Đông Á nói chung. Với những triển vọng
lạc quan về khả năng ký kết chính thức Hiệp
định Thương mại Tự do Việt Nam - EU vào
năm 2018, trước mắt cần tập trung vào thị
trường EU, tìm hiểu để thâm nhập các thị
trường ngách trong EU và kết nối thương mại
với các nước đối tác FTA của EU. Đặc biệt, các
doanh nghiệp nhập khẩu cần có kế hoạch phòng
ngừa rủi ro tỷ giá hợp lý cũng như cố gắng giữ
uy tín về chất lượng sản phẩm để có thể duy trì
và phát triển thị phần ở Nhật Bản và EU trong
bối cảnh VND đang có xu hướng tăng giá so
với Yên Nhật Bản và đồng Euro.
Tài liệu tham khảo
[1] IMF, “Uncertainty in the Aftermath of the U.K.
Referendum”, World Economic Outlook,
Washington D.C, 2016.
[2] IMF, World Economic Outlook: Uneven Growth
Short-and Long-term Factors, April 2015.
[3] IMF, World Economic Outlook October 2016,
Washington D.C, 2016b.
[4] WB, Global Economic Prospects: Having Fiscal
Space and Using it, January 2015.
[5] WB, Global Economic Prospects: Divergence
and Risks, Washington D.C, 2016d
[6] WTO, Monthly trade data, Geneva, 2016a.
[7] WTO, World Trade Statistical Review 2016,
Geneva, 2016b.
[8] Tổng cục Hải quan, “Nhập khẩu hàng hóa tháng
11/2016”, 2016a.
[9] Tổng cục Hải quan, “Nhập khẩu hàng hóa từ
một số nước/vùng lãnh thổ chia theo mặt hàng
chủ yếu tháng 11/2016”, 2016b.
[10] Tổng cục Hải quan, “Xuất khẩu hàng hóa tháng
11/2016”, 2016c.
[11] Tổng cục Hải quan, “Xuất khẩu hàng hóa từ một
số nước/vùng lãnh thổ chia theo mặt hàng chủ
yếu tháng 11/2016”, 2016d.
[12] Tổng cục Thống kê, Thông cáo báo chí về tình
hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2016,
https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=382
&ItemID=16066
[13] Cục Đầu tư Nước ngoài,
hut-dau-tu-nuoc-ngoai-11-thang-nam-2016 (truy
cập ngày 5/12/2016)
[14] Báo cáo Khai mạc kỳ họp Quốc hội khóa XIII
(2015), Tạp chí Kinh tế và dự báo, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư,
4326-khai-mac-ky-hop-thu-10-quoc-hoi-khoa-
xiii.html (truy cập ngày 30/11/2016).
[15] Báo cáo Tình hình kinh tế- xã hội 11 tháng năm
2016, Tổng cục Thống kê,
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621
&ItemID=16138 (truy cập ngày 30/11/2016).
N.H. Sơn và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 4 (2016) 1-11 11
The World and Vietnamese Economy in 2016,
Prospects for 2017 and Some Policy Implications for Vietnam
Nguyen Hong Son, Nguyen Cam Nhung,
Vu Thanh Huong, Nguyen Thi Minh Phuong
VNU University of Economics and Business,
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam
Abstract: This paper provides the "overall picture" overview of of the macroeconomic
situation of the world and Vietnam in 2016 and an outlook for 2017, and then gives some policy
implications for Vietnam. With the unpredictable trend of the global economy and the existing
domestic difficulties, Vietnam should have flexible response solutions, especially solutions for
exchange rate management, strong determination and drastic action in fact to be able to achieve
the objectives for growth and inflation as outlined; to continue to promote the improvement of
business environment and strong performance solutions support businesses towards more
transparent and equitable; to promote the trade facilitation and take advantage of new
opportunities to attract foreign investment to build infrastructure; enterprises need to diversify
their export markets, reducing their reliance on China and East Asia, focusing on the EU market,
learn to penetrate niche markets in the EU and the trade connections with all countries of the EU
FTA partners. Besides, it is also necessary to make a more active industrial policy to take
advantage of the new opportunities for development of the world economy.
Keywords: Economic growth, inflation, monetary, trade, inverstment.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_te_the_gioi_va_viet_nam_nam_2016_trien_vong_nam_2017_va.pdf