Sau khi học xong chương này, học viên sẽ hiểu được những vấn đề về hệ thống
tiền tệ quốc tế, tỷ giá hối đoái, thị trường ngoại hối và cán cân thanh toán quốc tế. Từ
đó, học viên có thể nắm được các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối và liên hệ
với thực tiễn nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính tiền tệ nói riêng.
Mục tiêu cụ thể
Sau khi học xong Chương 4, Học viên sẽ:
- Nắm vững các khái niệm về hệ thống tiền tệ quốc tế, tỷ giá hối đoái, thị trường
ngoại hối và cán cân thanh toán quốc tế.
- Hiểu được cách xác định tỷ giá và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
- Hiểu được các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối.
- Nắm được các nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng cán cân thanh toán
85 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1096 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kinh tế quốc tế - Chương 4: Thị trường tiền tệ và cán cân thanh toán quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là
không chỉ xem xét số lượng người lao động mà còn phải quan tâm đến chất lượng của
người lao động.
Thế mạnh của người lao động Việt Nam là thông minh, sáng tạo, có khả năng
nắm bắt nhanh chóng khoa học – công nghệ mới, có khả năng thích ứng với những
tình huống phức tạp. Người Việt Nam còn có truyền thống cần cù với nền tảng văn
hoá lâu đời và một nền giáo dục phổ cập rộng rãi. Giá nhân công thấp cũng được coi là
lợi thế của nước ta trong sự phân công lao động quốc tế. Nhưng người Việt Nam cũng
có nhiều hạn chế như tác phong làm việc chưa chuyên nghiệp, tính tự do, tản mạn, ý
chí vươn lên chưa cao bắt nguồn từ lịch sử, từ đặc điểm và trình độ phát triển của nền
kinh tế còn thấp.
Tốc độ tăng dân số cao là một trong những vấn đề đang gây sức ép lớn đối với
việc làm và đời sống của nhân dân. Những hạn chế về thể lực, kiến thức chuyên môn,
kinh nghiệm quản lý, những dấu ấn của cơ chế cũ, những thói quen của một nền sản
xuất nhỏ, lạc hậu cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nhịp độ phát triển kinh tế và việc
tham gia vào sự phân cộng lao động quốc tế của nước ta.
Xét một cách toàn diện, ta có thể khẳng định nguồn nhân lực là nguồn lực quan
trọng nhất và là lợi thế lớn nhất của nước ta trong sự trao đổi và phân công lao động
quốc tế. Tiềm năng trong lĩnh vực này của nước ta chưa được khai thác có hiệu quả,
đặc biệt là trí tuệ – một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển
và mở rộng kinh tế đối ngoại. Mặt khác, những hạn chế và khuyết điểm nói trên đều
có khả năng khắc phục được.
142
Nguồn nhân lực và yếu tố con người chỉ có thể trở thành thế mạnh trong kinh tế
đối ngoại khi chúng ta phát huy được những mặt mạnh và khắc phục những mặt yếu.
Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất và gia công hàng xuất khẩu, sự phát triển các sản
phẩm có công nghệ cao và dịch vụ là những lĩnh vực đòi hỏi hàm lượng trí tuệ cao thì
càng cần phải tăng cường sự hợp tác kinh tế và khoa học – công nghệ với nước ngoài.
6.2.2. Tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng
a. Tài nguyên đất đai
Đây là nguồn tài nguyên có ý nghĩa quan trọng trong phát triển nông nghiệp; đáp
ứng nhu cầu cho các công trình xây dựng và các tuyến đường giao thông trên bộ.
Diện tích đất đai nước ta khoảng 330.000 km2, đứng thứ 58 trong số 200 quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới; dân số tăng nhanh nên diện tích đất đai bình quân đầu
người không ngừng giảm xuống và hiện đang thuộc vào loại thấp nhất thế giới (năm
2000 còn khoảng 0.44 ha, đứng thứ 159 trên thế giới, trong khi năm 1990 là 0,51
ha/người).
Diện tích đất canh tác rất hạn chế, trong tổng số 64 loại đất thuộc 14 nhóm đất,
chiếm gần 30 triệu ha, chỉ có 2 loại đất chiếm khoảng 6 triệu ha có độ phì nhiêu cao và
thuận lợi cho việc trồng trọt:
- Đất phù sa (khoảng 3 triệu ha) phù hợp với trồng lúa, cây lương thực, cây công
nghiệp ngắn ngày.
- Đất đỏ ba-dan (khoảng 3 triệu ha) phù hợp với cây công nghiệp dài ngày.
Diện tích đất nông nghiệp của nước ta rất ít, chỉ có khoảng 10-11 triệu ha. Trong
đó, diện tích đất tốt hoặc không phải cải tạo và đầu tư nhiều chỉ vào khoảng 7 triệu ha.
Hiện nay mới chỉ sử dụng khoảng gần 70% số đất nông nghiệp hiện có, số còn lại
hầu hết là đất xấu (đất dốc, xói mòn, thoái hoá, mặn, phèn, úng lụt).
Bình quân diện tích đất nông nghiệp đang khai thác ở nước ta hiện nay khoảng 0,1
ha/người, trong khi đó bình quân trên thế giới năm 1994 là 0,34 ha/người. Xu hướng
bình quân diện tích đất đai nông nghiệp trên đầu người ngày càng giảm, bởi vì: do tốc
độ tăng dân số và do phát triển công nghiệp, đô thị, cơ sở hạ tầng chiếm dụng đất canh
tác nông nghiệp. Đó là giới hạn của tài nguyên này. Do đó, để đảm bảo lương thực và
thực phẩm cho xã hội, đồng thời có điều kiện dành một diện tích đất canh tác trồng cây
công nghiệp nhiệt đới (dài và ngắn ngày) đáp ứng nhu cầu xuất khẩu (cao su, dâu tằm,
cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, lạc, đậu, ) và để phát triển chăn nuôi xuất khẩu, tất
yếu phải tăng vòng quay sử dụng đất, thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng.
Thực trạng đó cũng đòi hỏi phải coi tiết kiệm và bảo vệ đất đai nông nghiệp là quốc
sách. Quốc hội khoá IX đã thảo luận về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đến 2010
nhằm tăng thêm diện tích đất nông nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai.
b. Tài nguyên khí hậu
Nước ta nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng sâu sắc của
chế độ gió mùa châu Á; lượng mưa lớn (trung bình 1.800 mm-2.000 mm/năm), thời
gian có ánh sáng mặt trời nhiều, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm cao, có nơi tới 80%, thậm
chí 100%. Đó là những điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hoá cây trồng và phát
triển nông nghiệp theo nghĩa rộng. Tài nguyên khí hậu – thuỷ văn cho phép chúng ta
khai thác có hiệu quả tài nguyên đất đai có hạn và nhân lên nhiều lần quỹ đất canh tác.
143
Nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều yếu tố không thuận lợi như: hay có giông bão, lũ
lụt, sương muối và rét đậm vào mùa đông gây khó khăn cho quá trình sinh trưởng của
một số động thực vật, ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp và đời sống dân cư.
Mặt khác, do phá rừng bừa bãi, phát triển công nghiệp thiếu chọn lọc, không có quy
hoạch và các hoạt động của các phương tiện giao thông đã gây ô nhiễm sinh thái và
suy giảm nguồn tài nguyên thời tiết, khí hậu vốn có của đất nước. Vì vậy, phát triển
kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng việc bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái.
c. Tài nguyên rừng
Rừng là nguồn tài nguyên vừa có giá trị kinh tế vừa có giá trị bảo vệ môi trường.
Về mặt kinh tế, rừng cho sản phẩm gỗ là vật liệu kiến trúc quan trọng. Ngoài ra, rừng
còn cung cấp cho chúng ta nhiều sản phẩm động thực vật: thịt thú rừng, dược liệu, dầu
thực vật, vỏ cây quý, hoa quả có giá trị thương mại Đó là những sản phẩm tạo ra
nguồn thu nhập quan trọng cho người dân nông thôn ở vùng rừng núi. Rừng còn có giá
trị bảo vệ môi trường: chống xói mòn, lụt lội, điều hoà khí hậu, chống sự thiêu đốt của
mặt trời, tạo môi sinh cho các loại động, thực vật khác nhau Giá trị bảo vệ môi
trường của rừng rất quan trọng nhưng khó định lượng hơn giá trị kinh tế của nó. Hai
mặt này trong thực tế thường có mâu thuẫn nhau.
Việt Nam có diện tích rừng nhiệt đới khá lớn, khoảng hơn 19 triệu ha đất rừng;
nhưng diện tích rừng chỉ còn khoảng 9,3 triệu ha, với trữ lượng gỗ khoảng 600 triệu
m3. Trữ lượng gỗ/ha có rừng che phủ của Việt Nam hiện nay là 76 m3/ha vào loại rừng
nghèo của thế giới. Rừng Việt Nam tuy trữ lượng gỗ không lớn, song có nhiều loại gỗ
quý, nhiều loại lâm sản có giá trị kinh tế và dược liệu. Nhờ có nhiều ánh sáng mặt trời,
lượng mưa lớn, độ ẩm cao, nên tài nguyên động thực vật ở rừng Việt Nam rất phong
phú, đa dạng. Rừng nước ta vừa mang tính đặc thù của hệ động thực vật Việt Nam,
vừa mang tính tổng hợp của khu hệ độg thực vật miền Nam Trung Hoa, Ấn Độ,
Malaisia, Mianma. Động vật sống ở rừng Việt Nam có khoảng 1000 loài chim, hơn
300 loài thú và khoảng 300 loài bò sát, có nhiều loại đặc biệt quý hiếm.
Tài nguyên rừng nước ta bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều khu rừng nguyên sinh bị
tàn phá, nhiều loại lâm sản quý hiếm không còn khả năng tái tạo, nhiều loại động vật
quý hiếm đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng như: tê giác, trâu rừng, bò tót, voi, hổ
Đông Dương
Tình trạng suy giảm tài nguyên rừng do nhiều nguyên nhân, song chủ yếu do
phương thức canh tác lạc hậu, du canh, du cư, phát nương làm rẫy, săn bắn bừa bãi,
thiếu khoa học, tình trạng rừng là của chung, vô chủ kéo dài, không ai chăm sóc. Mặt
khác, cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo, ác liệt của đế quốc Mỹ còn để lại những hậu
quả lâu dài cho rừng nước ta.
d. Tài nguyên biển
Biển và bờ biển là thế mạnh của nền kinh tế. Nước ta có khoảng trên 1.000.000
km2 mặt biển và hơn 3.260 km bờ biển, bình quân 100 km2 đất liền có 1 km bờ biển,
trong khi đó bình quân của thế giới cứ 600 km2 đất liền mới có 1 km bờ biển. Đó là
một trong những lợi thế đối với sự phát triển kinh tế nước ta.
Vùng biển nước ta có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ, trên các hòn đảo và ven bờ các
hòn đảo đã phát hiện có các loại khoáng sản, thềm lục địa có dầu mỏ và khí đốt. Biển
nước ta có nhiều hòn đảo tạo thành các eo, vịnh, môi trường sinh trưởng của hệ sinh
vật biển rất đa dạng về chủng loại, có nhiều hải sản quý hiếm. Với khả năng nghiên
144
cứu về biển của nước ta hiện nay, bước đầu đã xác định có trên 1.000 loài cá, trên 350
loại rong, trong đó trên 100 loại cá và trên 100 loại rong có giá trị kinh tế cao. Ngoài
cá biển, còn có các loại tôm, rắn biển, rùa, hải sâm là những động vật quý hiếm có
giá trị cao về dược liệu và kinh tế.
e. Tài nguyên khoáng sản
Các loại khoáng sản là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khai thác và công
nghiệp sản xuất các loại vật liệu như: công nghiệp luyện kim, công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng, thuỷ tinh, sành sứ Trong số 16 loại khoáng sản chủ yếu được sản
xuất trên thế giới hiện nay thì các nước đang phát triển dẫn đầu thế giới về sản xuất
bôxit, phốt phát và chiếm tỷ trọng lớn về sản xuất coban, cromít, thiếc, đồng. Trong
khi đó, các nước công nghiệp phát triển cung cấp 6 loại khoáng sản chủ yếu là: kiềm,
lưu huỳnh, phốt phát, quặng sắt, niken và kẽm.
Với thiết bị khoa học, kỹ thuật và qua thăm dò khảo sát, chúng ta biết được nguồn
tài nguyên khoáng sản nước ta rất phong phú, đa dạng về thể loại, nhưng phức tạp về
cấu trúc và hầu hết các loại khoáng sản đều có trữ lượng vừa và nhỏ, điều kiện khai
thác khó khăn. Tài nguyên khoáng sản nước ta bao gồm:
* Dầu mỏ và khí đốt: tập trung chủ yếu ở thềm lục địa với diện tích có triển vọng
có dầu khoảng 200.000 km2. Trữ lượng dầu mỏ ước tính sơ bộ trên 1.000 triệu tấn và
hàng nghìn tỷ m3 khí đốt. Ở Việt Nam, dầu mỏ và khí đốt đã được thăm dò, phát hiện
trong vài ba thập kỷ gần đây. Năm 1976 phát hiện khí thiên nhiên ở Tiền Hải, tỉnh
Thái Bình. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, nhất là từ
khi có Luật đầu tư nước ngoài, chúng ta đã tiến hành thăm dò, khai thác dầu khí ở
vùng biển nước ta. Mỏ dầu Bạch Hổ do liên doanh Vietso-Petro đã bắt đầu khai thác từ
năm 1986. Hiện mỏ Rồng và Đại Hùng do Petro Việt Nam hợp đồng chia sản phẩm
với các công ty của Australia, Pháp, Nhật, Malaysia cũng đã đưa vào khai thác từ cuối
năm 1994. Đề án sử dụng khí mỏ Bạch Hổ và xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 Dung
Quất cũng đang được tiến hành. Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt của nước ta nhìn chung
thuộc loại nhỏ, điều kiện khai thác khó khăn, ngoài khơi xa, mực nước sâu, lại hay bị
dông bão.
* Than đá: cũng là một trong những nguồn năng lượng có ý nghĩa đối với Việt
Nam và các nước đang phát triển. Sau nhiều năm bị coi là một loại nhiên liệu độc hại,
vừa khó khai thác vừa gây ô nhiễm khi sử dụng, hiện than đá đang được sử dụng ưa
chuộng nhờ vào giá rẻ và kỹ thuật sử dụng hoàn toàn mới. Than đá có lợi thế là trữ
lượng dồi dào nên đảm bảo giá cả tương đối ổn định. Ngoài ra, than đá phân bố tương
đối đồng đều giữa các vùng lãnh thổ trên trái đất. Nhưng nhược điểm của than là gây ô
nhiễm do khói than có nhiều chất độc hại như khí cacbonic Tuy nhiên nhược điểm
này đang dần được khắc phục nhờ những kỹ thuật lọc khí đang được thí nghiệm và đặc
biệt là có hai kỹ thuật đang có nhiều triển vọng là biến than đá từ thể rắn thành thể khí
trước khi đem đốt và lọc than bằng luồng gió nhân tạo đã được tính đến trong những
đề án xây dựng nhà máy nhiệt điện. Do những ưu điểm trên mà than đá được dự báo
có thể trở thành nguồn năng lượng chính của thế kỷ 21. Nước ta có nhều than đá ở
vùng Quảng Ninh, chủ yếu là than atraxit. Ngoài ra, ở vùng trũng tam giác sông Hồng
dưới độ sâu từ 200-2000 m đã phát hiện than linhit lửa dài. Trữ lượng than nước ta chủ
yếu nằm dưới độ sâu từ 300-1000m, trong đó trữ lượng than ở độ sâu từ 300-400m
chiếm hơn 50%. Những mỏ than đã và đang khai thác có trữ lượng nhỏ, hằng năm khai
thác được khoảng 10 đến 15 triệu tấn. Hiện tiềm năng than gầy ước tính khoảng 4-5 tỷ
145
tấn, đã thăm dò được 2 tỷ tấn; than nâu ở đồng bằng Bắc Bộ với trữ lượng hàng chục
tỷ tấn đã được thăm dò sơ bộ. Muốn tăng sản lượng than đá hàng năm phải đầu tư khai
thác hầm lò, đòi hỏi vốn lớn, công nghệ cao. Than đá là loại nhiên liệu rất quan trọng
trong đời sống và trong sản xuất công nghiệp. Việc tổ chức khai thác, sử dụng than ở
nước ta những năm qua đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, cần phải nghiên cứu tổ
chức quản lý một cách khoa học để ổn định và phát triển.
* Khoáng sản kim loại:
- Quặng sắt nước ta có trữ lượng khá, hàm lượng ôxít sắt cao, tập trung ở các khu
vực:
Khu Tây Bắc có các mỏ dọc sông Hồng như Bắc Hà, Quý Sa, Nàng Mị, Hưng
Khánh, các mỏ này có trữ lượng nhỏ, hàm lượng sắt trung bình từ 43-52%, điều kiện
khai thác khó khăn.
Khu Đông Bắc có các mỏ Trại Cau, Tiến Bộ, Quang Trung (Thái Nguyên), mỏ Nà
Rùa, Bản Lĩnh (Cao Bằng), mỏ Tòng Bá ở Hà Giang; những mỏ này có trữ lượng vừa
và nhỏ, hàm lượng sắt khá cao, có nơi trên 60%.
Khu Trung bộ, quặng sắt có ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh; mỏ có trữ
lượng tập trung lớn nhất ở Thạch Khê (Hà Tĩnh) là loại quặng có chất lượng khá cao,
nhưng điều kiện khai thác lại vô cùng khó khăn.
- Quặng mangan: quặng mangan tập trung chủ yếu ở mỏ Hạ Long, Cao Bằng, trữ
lượng không lớn, chất lượng không cao.
- Quặng cromit: quặng cromit nằm rải rác ở vùng núi Nưa, tỉnh Thanh Hoá, trữ
lượng nhỏ, điều kiện khai thác lộ thiên thuận lợi, hàm lượng Cr2O3 trên 46%. Ngoài ra
còn có nhiều biểu hiện địa chất cho thấy khả năng tìm kiếm quặng cromit gốc.
- Quặng titan và zircon: quặng titan và zircon nằm chủ yếu trên bờ biển, rải rác ở
các vùng Bình Ngọc (Quảng Ninh), Quảng Xương (Thanh Hoá), Thuận An (Huế),
Sông Cầu (Phú Yên), Hàm Tân (Thuận Hải) và Vũng Tàu, nhưng trữ lượng nhỏ, khai
thác khó khăn.
- Quặng bô xít: quặng bô xít ở nước ta có trữ lượng khá lớn và tập trung chủ yếu
trên cao nguyên miền Trung chạy dài từ Bảo Lộc, Tân Rai (Lâm Đồng) qua Đắc Lắc
đến Kông Hà Nừng (Gia Lai); trên vùng núi phía Bắc có ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao
Bằng, Hà Tuyên Quặng bô xít có hàm lượng Al2O3 lên tới 47,5%; điều kiện khai
thác thuận lợi.
- Quặng chì kẽm: quặng chì kẽm nằm rải rác ở vùng núi phía Bắc, đã phát hiện
được khoảng 50 điểm có quặng, nhưng tập trung ở chợ Điền, Lang Hít, Tú Lệ, Ngân
Sơn tỉnh Lạng Sơn. Trữ lượng nhỏ, phân tán, khai thác khó khăn.
- Quặng thiếc vonfram: quặng thiếc vonfram trữ lượng nhỏ bé, nằm rải rác trên các
vùng lãnh thổ của đất nước, nhưng chủ yếu tập trung ở các nơi như Tĩnh Túc (Cao
Bằng), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Quỳ Hợp (Nghệ An).
Mỏ thiếc Tĩnh Túc đã khai thác gần hết trữ lượng. Nhiều vùng sa khoáng khác
chưa được thăm dò, nhất là vùng thềm lục địa. Triển vọng quặng thiếc vonfram ở nước
ta còn nhiều nếu được đầu tư thăm dò nghiên cứu đúng mức.
- Vàng: vàng nước ta có trữ lượng rất nhỏ, chủ yếu ở dưới dạng sa khoáng, đã tìm
kiếm và phát hiện vàng gốc ở một số nơi.
146
- Đất hiếm: các mỏ đất hiếm tập trung ở Phong Thổ (Lai Châu). Ngoài ra còn phát
hiện quặng đất hiếm ở Yên Phú (Yên Bái), Bát Sát (Lào Cai), Quỳ Hợp (Nghệ An).
Trữ lượng không lớn, hàm lượng ô xít đất hiếm vào loại trung bình từ 3-4%, đặc biệt
thân quặng giàu có thể đạt tới 10-30%.
* Khoáng sản phi kim loại:
- Quặng Apatit: Mỏ Apatit Lào Cai có trữ lượng khá lớn, có hàm lượng P2O3 từ
mức thấp nhất là 6%, cao nhất là 34%.
- Ngoài ra còn có các loại khoáng sản phi kim loại khác như: pyrit ở Ba Vì (Hà
Tây); seepentin ở Nông Cống (Thanh Hoá); graphit ở Tiên An (Quảng Nam - Đà
Nẵng); cao lanh ở Phú Thọ, Trại Mác (Lâm Đồng); bentonit ở Di Linh (Lâm Đồng);
các mỏ đá quý ở Yên Bái, Nghệ An, Lâm Đồng, Đồng Nai có trữ lượng khá, nằm
rải rác ở các vùng rừng núi rộng lớn nên khai thác khó khăn.
- Vật liệu xây dựng: trữ lượng vật liệu xây dựng của nước ta khá lớn và phong phú,
đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nước ta có nguồn đá
vôi rất dồi dào, có thể tổ chức sản xuất hằng năm từ 25-30 triệu tấn xi măng. Các loại
vật liệu xây dựng khác như: cát, đá, sỏi đều có trữ lượng lớn, chất lượng cao, điều kiện
khai thác thuận lợi, nhưng phân bổ không đều giữa các miền đất nước.
f. Tiềm năng du lịch
Việt Nam có nhiều danh lam thắng cảnh đặc sắc, độc đáo như: quần thể thắng cảnh
khu vực Vịnh Hạ Long, những bãi biển dài cát mịn, nước sạch và ấm quanh năm như
bãi biển Nha Trang, những thành phố cao nguyên như Đà Lạt, những rừng nguyên
thuỷ với những thảm thực vật đa dạng và phong phú như rừng quốc gia Cúc Phương,
nhiều di tích lịch sử nổi tiếng (sông Bạch Đằng, đường mòn Hồ Chí Minh, địa đạo Củ
Chi), một nền văn hoá lâu đời đáp ứng yêu cầu của khách du lịch nước ngoài.
Đó là những tài nguyên vô giá, có ý nghĩa quan trọng không chỉ về kinh tế mà còn
về văn hoá - chính trị, mang lại một nguồn ngoại tệ đáng kể, đồng thời góp phần củng
cố quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Đây cũng là một lợi thế
quan trọng trong các mối quan hệ kinh tế và các mối quan hệ đối ngoại nói chung của
nước ta.
Tóm lại, tài nguyên thiên nhiên nước ta rất đa dạng, phong phú, được phân bổ khá
đều, song trữ lượng hầu hết vào loại vừa và nhỏ, điều kiện khai thác khó khăn. Riêng
vật liệu xây dựng và quặng bôxit là có trữ lượng lớn, điều kiện khai thác thuận lợi.
Nhà nước cần có chiến lược khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên nhằm tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cần có những quy định
nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên của đất nước.
6.2.3. Vị trí địa lý thuận lợi
Việt Nam nằm trên báo đảo gần trung tâm Đông Nam Á, có diện tích đất liền gần
330.000 km2; phần nội thuỷ và lãnh hải với bờ biển rộng khoảng 226.000 km2; vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng khoảng 1.000.000 km2, trên đó có 2.779 hòn
đảo lớn nhỏ đã được khảo sát, diện tích các đảo tổng cộng hơn 1.509 km2, trong đó có
3 hòn đảo có diện tích trên 100 km2 và 23 hòn đảo có diện tích trên 10 km2. Mỗi hòn
đảo lại có phần nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Nước ta nằm ở lục địa châu Á, tiếp giáp với bờ Đông và bờ Nam của lục địa này.
Với vị trí địa lý như vậy, nước ta tiếp nhận cả hai luồng di cư động vật, thực vật từ
147
Trung Hoa xuống, từ Ấn Độ sang, là cửa ngõ đi ra Thái Bình Dương của một số nước
Đông Nam Á với những cảng quốc tế trên những tuyến hàng hải quan trọng từ Đông
sang Tây và ngược lại; là điểm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng
của thế giới. Việt Nam có ưu thế địa lý trong lĩnh vực hàng hải và giao thông quốc tế.
Có thể nói, vị trí địa lý cũng là một trong những điều kiện cho phát triển kinh tế hàng
hoá ở nước ta.
Mặt khác, cao nguyên miền Trung gắn với cao nguyên Nam Lào và miền Đông
Campuchia, có nhiều đường thông ra biển cho phép các nước Đông Dương và tại điều
kiện cho cả 3 nước Đông Dương giao lưu với khu vực và thế giới.
Nằm chắn ngang đường hàng không từ Tây sang Đông, từ Nam lên Bắc, với những
sân bay quốc tế quan trọng như Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, Nội Bài, Đà Nẵng (trước
năm 1975, sân bay Tân Sơn Nhất là sân bay quan trọng bậc nhất ở Đông Nam Á với
hàng trăm chuyến bay mỗi ngày), với đường bay A1, với hàng chục nghìn chuyến bay
quá cảnh trong một năm, Việt Nam còn có ưu thế về hàng không nhưng đến nay chưa
được khai thác thích đáng.
Tiềm lực hàng hải và hàng không không những tạo thuận lợi cho nước ta tham gia
sâu rộng vào sự trao đổi và sự phân công lao động quốc tế, mà còn cho phép phát triển
các dịch vụ hàng hải và hàng không thành những dịch vụ thu ngoại tệ quan trọng.
Ưu thế địa lý rõ ràng là một lợi thế để mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại,
thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển ngoại thương, phát triển du lịch, tăng nguồn thu
ngoại tệ.
Tóm lược
Các nguồn lực nói trên tác động và bổ sung lẫn nhau và là lợi thế quan trọng của
nước ta trong lĩnh vực trao đổi và phân công lao động quốc tế.
Việc đánh giá các nguồn lực trên phải đứng trên quan điểm toàn diện và thực tiễn,
phải đánh giá cả những mặt thuận lợi và khó khăn của nguồn lực để xác định rõ những
điều kiện cần có khi khai thác và sử dụng.
Câu hỏi tham luận
Câu 2: Phân tích các nguồn lực phát triển quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam?
6.3. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM.
Giới thiệu
Phần này sẽ nghiên cứu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sau khi
học xong mục 3 này học viên sẽ:
- Hiểu được sự cần thiết khách quan phải hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nắm vững các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập
kinh tế quốc tế
- Tìm hiểu về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là việc
Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới - WTO.
Nội dung
6.3.1. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan
148
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ
chức hợp tác kinh tế của khu vực và toàn cầu. Trong đó, mối quan hệ giữa các nước
thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối.
Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là tự do hóa thương mại và đầu tư. Đối với
quốc gia, hội nhập kinh tế quốc tế được thực hiện thông qua việc Chính phủ ký kết các
hiệp định thương mại song phương và đa phương, tham gia vào các liên kết kinh tế
quốc tế và các tổ chức kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan do những nguyên nhân sau:
a. Nguyên nhân khách quan:
- Do sự tác động của xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đời sống kinh tế thế giới,
không một nước nào có thể phát triển kinh tế một cách riêng rẽ.
- Do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và sự phát triển đó đã vượt khỏi
phạm vi một quốc gia, từ đó thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phân công lao động
quốc tế. Bởi vậy, nó đòi hỏi nền kinh tế của mỗi nước từng bước phải hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới.
- Sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ đã tạo điều kiện và đòi
hỏi nền kinh tế của mỗi nước cần khai thác có hiệu quả những thành tựu khoa học
công nghệ vào phát triển kinh tế quốc gia.
- Do xu thế hòa bình, hợp tác, cùng phát triển buộc các dân tộc, các quốc gia trên thế
giới cần phải"Đối thoại" thay cho "Đối đầu" kinh tế.
b. Nguyên nhân chủ quan:
- Trong quá trình phát triển kinh tế, trên thế giới không có một quốc gia nào có đủ tất
cả các nguồn lực. Do vậy, hội nhập kinh tế quốc tế để giải quyết những khó khăn dựa
trên sự tận dụng các nguồn lực bên ngoài và phát huy có hiệu quả các nguồn lực trong
nước.
- Do các nước không muốn bị tụt hậu quá xa trong quá trình phát triển nên đều tìm
cách hội nhập vào xu thế chung.
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết và mang tính tất yếu. Do đó, để chủ
động hội nhập thành công vào đời sống kinh tế thế giới, các quốc gia cần nhanh chóng
điều chỉnh cơ cấu kinh tế phù hợp với quá trình tự do hóa và mở cửa; tiến hành các cải
cách kinh tế xã hội, đặc biệt là cải cách hệ thống các doanh nghiệp để nâng cao năng
lực cạnh tranh; đào tạo và chuẩn bị nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ công chức,
những người quản lý và lực lượng công nhân lành nghề nhằm đáp ứng tốt các đòi hỏi
của quá trình hội nhập.
6..3.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế
quốc tế.
Từ khi phát triển đất nước theo đường lối đổi mới năm 1986, Chính phủ Việt Nam
ngày càng nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh
tế và cạnh tranh quốc tế. Giai đoạn 1986 – 1996 là giai đoạn Việt Nam xác lập đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VI nhận định: “Xu thế mở rộng phân công, hợp
tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những
điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta”. Từ
149
đó, Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ
thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư
nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Tháng 12/1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành tạo cơ sở
pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Tháng 5/1988,
Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình
mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Đảng, của nhân dân ta là
phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Bộ
Chính trị chủ trương kiên quyết chủ động chuyển từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh
và hợp tác; mở rộng quan hệ quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Nghị
quyết số 13 của Bộ Chính trị đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và chuyển
hướng toàn bộ c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gtkt0009_p2_7259.pdf