Kinh tế lượng - Chương V: Tiền tệ và thị trường tiền tệ

Cung cầu tiền tệ ảnh hưởng đến nền kinh tế thông qua lãi suất được hình thành

trên thị trường tiền tệ. Lãi suất là biến số kinh tế sẽ ảnh hưởng đến sản lượng hay mức

thu nhập của nền kinh tế. Vì thế ngân hàng trung ương có thể tác động đến lãi suất

bằng cách thay đổi mức cung tiền, từ đó có thể tác động đến mức thu nhập hay sản

lượng của nền kinh tế. Trong chương này chúng ta sẽ nghiên cứu về cung và cầu tiền

tệ, các công cụ mà ngân hàng trung ương có thể sử dụng để tác động đến mức cung

tiền, và cuối cùng là xác định mức lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ cũng như

những thay đổi của mức lãi suất cân bằng trên thị trường do sự biến động của cung và

cầu tiền tệ.

pdf52 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 895 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kinh tế lượng - Chương V: Tiền tệ và thị trường tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 7.1. 1. Tính tất yếu của thương mại quốc tế Ngày nay trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều đã mở cửa kinh tế. Thương mại quốc tế là điều kiện tất yếu để phát triển đất nước. Lý thuyết về lợi thế so sánh đã chỉ cho ta thấy: - Mọi quốc gia đều có lợi ích khi tham gia vào thương mại quốc tế. Thị trường quốc tế tạo ra cho các nước cơ hội để mua hàng với giá thấp tương đối so với giá hiện hành trong nước. - Một nước càng nhỏ bao nhiêu thì khả năng thu lợi từ thương mại quốc tế càng lớn bấy nhiêu, vì giá trên thị trường thế giới gần với giá thị trường của nước lớn về kinh tế cho nên nước nhỏ có lợi trong buôn bán. - Nhờ thương mại quốc tế mà mỗi nước có khả năng tiêu dùng ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất của bản thân mình, đồng thời sản xuất cũng tăng lên nhờ mở rộng thị trường. - Tiền lương thực tế sau khi có thương mại sẽ cao hơn trước khi có thương mại. Trên hình vẽ sau mô tả việc mua bán giữa châu Âu và Mỹ đều làm tăng khả năng tiêu dùng của mình như thế nào. Hãy xét Mỹ và châu Âu cách đây 1 thế kỷ chỉ tập trung vào hai mặt hàng thực phẩm và quần áo. ở Mỹ, đất đai và tài nguyên thiên nhiên dồi dào so với lao động và tư bản; còn ở châu Âu thì lao động và tư bản lại dồi dào hơn so với đất đai và tài nguyên. Nếu không có thương mại, mỗi nước đành chịu thoả mãn với sản phẩm của chính mình sản xuất, cho nên bị hạn chế trong ranh giới của khả năng sản xuất được ký hiệu là đường trước khi có thương mại. Sau khi mở cửa biên giới tiến hành thương mại quốc tế, làm cân bằng giá cả của cả hai mặt hàng, đường tiêu dùng được mở ra, biểu thị bằng đường bên ngoài, đường sau khi có thương mại. Sở dĩ như vậy vì ở Mỹ quần áo tương đối đắt hơn. Những nhà buôn sẽ đưa quần áo từ châu Âu sang mỹ và họ lại đưa lương thực từ Mỹ sang thịt rường châu Âu, nơi lương thực có giá tương đối cao. Công nghiệp dệt của Mỹ sẽ bị hàng nhập khẩu cạnh tranh về giá và nếu không có gì thay đổi lớn thì ngành dệt phải đóng cửa. Điều ngược lại sẽ diễn ra ở châu Âu, công nghiệp thực phẩm sẽ thu hẹp lại trong khi công nghiệp dệt sẽ mở rộng. Kết quả của việc mở rộng thương mại thì cả châu Âu và Mỹ đều có lợi. Mỹ được lợi qua việc mua quần áo từ châu Âu rẻ hơn quần áo sản xuất trong nước. Châu Âu được lợi qua việc chuyên môn hoá và sản xuất quần áo trong nước và mua lương thực rẻ hơn so với tự sản xuất trong nước. 99 Hình 7.1. Đường GHKNTD của Mỹ và Châu Âu trước và sau khi có thương mại quốc tế 7.1. 2. Cán cân thương mại quốc tế Cán cân thương mại quốc tế phản ánh mối quan hệ trong việc xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia với các quốc gia khác. 7.1.2.1. Xuất khẩu (X) Xuất khẩu của một quốc gia là những hàng hoá và dịchv ụ đưcợ sản xuất trong nước để bán ra nước ngoài. Hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc vào quan hệ ngoại giao của một quốc gia đối với một quốc gia khác và phụ thuộc vào nhu cầu của người nước ngoài đối với hàng hoá trong nước. Do đó hàm xuất khẩu có thể biểu diễn như sau: X = X (Trong đó: X là xuất khẩu; X là mức xuất khẩu không phụ thuộc vào ý chí của nước xuất khẩu). 7.1.2.2. Nhập khẩu (IM) Nhập khẩu của một quốc gia là những hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ở nước ngoài, và được nhân dân trong nước mua sử dụng trong nền kinh tế nội địa. Trái với xuất khẩu, nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập trong nước. Khi thu nhập tăng, nhu cầu về hàng hoá ngoại ở trong nước cũng tăng vì khi đó các nhà sản xuất nhập thêm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu để mở rộng sản xuất. Mặt khác thu nhập tăng thêm, người dân có nhu cầu tiêu dùng hàng nội địa, là việc tiêu dùng hàng ngoại nhập cũng tăng lên. Một khuynh hướng tâm lý chung của người tiêu dùng là khi thu nhập tăng thêm, họ sẽ tăng tiêu dùng cho hàng ngoại nhập nhiều hơn chi tiêu cho hàng nội địa. Như vậy có thể xem nhập khẩu tỷ lệ thuận với thu nhập. Hàm nhập khẩu có dạng: IM = MPM*Y Trong đó: IM: Nhập khẩu MPM: Xu hướng nhập khẩu cận biên Y: Thu nhập hay sản lượng quốc dân Trước TM Sau khi có TM 600 Lương thực Mỹ Lương thực Châu Âu Trước TM Sau khi có TM 200 300 300 450 300 Quần áo Quần áo 100 Xu hướng nhập khẩu cận biên MPM cho biết khi thu nhập quốc dân tăng 1 đơn vị thì tăng thêm cho nhập khẩu là bao nhiêu. 7.1.2.3. Cán cân thương mại Giá trị của hàng xuất khẩu trừ đi giá trị của hàng nhập khẩu gọi là xuất khẩu ròng: NX = X - IM Khi xuất khẩu ròng mang dấu dương (hoặc X >IM): giá trị xuất khẩu lớn hơn giá trị nhập khẩu, ta có xuất siêu. Khi xuất khẩu ròng mang dấu âm (hoặc X < IM): giá trị xuất khẩu nhỏ hơn giá trị nhập khẩu, ta có nhập siêu. Cán cân thương mại là giá trị xuất khẩu ròng, được mô tả ở hình vẽ sau Hình 7.2. Cán cân thương mại quốc tế Khi xuất khẩu vượt nhập khẩu nền kinh tế có khoản thặng dư thương mại. Cân bằng thương mại đạt được khi X = IM. Nhận xét: - ở mức thu nhập thấp, xuất khẩu ròng NX > 0, có thặng dư thương mại. - ở mức thu nhập cao, xuất khẩu ròng NX < 0, bị thâm hụt thương mại. Nếu tăng nhập khẩu mà xuất khẩu không đổi thì thu nhập sẽ làm giảm thặng dư thương mại hay tăng thâm hụt thương mại. 7.1.3. Cán cân thanh toán quốc tế Cán cân thanh toán quốc tế (Balance of international) của một nước là những báo cáo có hệ thống về tất cả các giao dịch kinh tế giữa nước đó và phần còn lại của thế giới. 7.1.3.1. Cấu thành của cán cân thanh toán quốc tế Cấu thành chính là tài khoản vãng lai (current acount) và tài khoản vốn (capital account). Cơ cấu cơ bản của cán cân thanh toán được trình bày như sau: IM = MPM - Y X 500 O Điểm cân bằng thương mại 500 Y Thặng dư TM Thâm hụt 101 Bảng 7.1. Cán cân thanh toán của 1 quốc gia (triệu USD) Khoản mục Khoản có (+) Khoản nợ (-) I. Tài khoản vãng lai 892 1. Cán cân thương mại 628 2. Dịch vụ và thu nhập ròng từ nước ngoài 264 II. Tài khoản vốn -772 1. Đầu tư ròng 199 2. Giao dịch tài chính ròng -971 III. Sai số thống kê 129 IV. Cân đối chính thức IV = I + II + III 249 V. Tài trợ chính thức V = - IV -249 7.1.3.2. Quy tắc ghi chép cán cân thanh toán quốc tế Giống như mọi tài khoản khác, cán cân thanh toán ghi chép mọi giao dịch, bất kể là với dấu (+) hay (-). Quy tắc chung của mọi hạch toán cán cân thanh toán như sau: Nếu một giao dịch mang lại ngoại tệ cho quốc gia được gọi là khoản có và được ghi chép như một khoản dương. Nếu một giao dịch phải chi tiêu ngoại tệ, đó là khoản nợ và được ghi chép như một khoản âm. Xuất khẩu có thể thu được ngoại tệ, nên nó là khoản có. Nhập khẩu đòi hỏi phải chi tiêu ngoại tệ nên nó là khoản nợ (liabilitier). 7.1.3.3. Chi tiết về cán cân thanh toán Tài khoản vãng lai: Ghi chép các luồng buôn bán hàng hoá và dịch vụ cũng như các khoản thu nhập ròng khác từ nước ngoài. Tài khoản này gồm ba khoản mục lớn: - Khoản mục hàng hoá (còn gọi là thương mại hữu hình) - Khoản mục dịch vụ (còn gọi là thương mại vô hình) - Khoản mục về thu nhập ròng về tài sản ở nước ngoài Tài khoản vốn: Ghi chép các khoản giao dịch trong đó tư nhân và Chính phủ đi vay và cho vay, thực hiện dưới hình thức mua hay bán tài sản (tài sản chính hay tài sản thực). Sai số thống kê là để điều chỉnh những phần sai sót mà quá trình thống kê gặp phải. Cán cân thanh toán là tổng các tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Nó được tính theo công thức: Cán cân thanh toán = Tài khoản vãng lai + Tài khoản vốn + Sai số thống kê Nếu một trong hai tài khoản là có và tài khoản kia là nợ với cùng một quy mô thì cán cân thanh toán bằng 0. Nếu cả hai tài khoản là nợ thì cán cân thanh toán là nợ. Điều đó nói lên rằng đất nước chi tiêu nhiều ngoại tệ hơn là htu ngoại tệ, cán cân thanh toán bị thâm hụt. Trường hợp ngược lại cán cân thanh toán thặng dư. Tài trợ chính thức Là tài khoản ngoại tệ mà ngân hàng trung ương bán ra hoặc mua vào nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán khi nó thặng dư hay thâm hụt. Tài trợ chính thức luôn mang 102 dấu ngược với dấu của kế toán chính thức. Có nghĩa là: nếu ngoại tệ được bán ra khỏi ngân hàng trung ương thì ghi dấu (+), ngoại tệ được ngân hàng trung ương mua vào thì ghi dấu (-). 7.2. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI Thị trường ngoại hối là thị trường quốc tế mà trong đó đồng tiền của quốc gia này có thể đổi lấy đồng tiền của quốc gia khác. Nói cách khác là thị trường mua, bán ngoại tệ. 7.2.1. Cầu về ngoại tệ Cầu về tiền của một nước phát sinh trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ các nước khác mua hàng hoá và dịch vụ được sản xuất tại nước đó. Một nước xuất khẩu càng nhiều thì cầu đối với đồng tiền nước đó trên thị trường ngoại hối càng lớn. Đường cầu về một loại tiền trên thị trường ngoại hối là hàm của tỷ giá hối đoái của nó. Đường này có độ dốc về phía phải hàm ý là tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá của nước ấy càng trở nên đắt hơn trên thị trường quốc tế và càng ít hàng hoá được xuất khẩu hơn. 7.2.2. Cung về ngoại tệ Tiền của một nước được cung ứng ra thị trường tiền tệ quốc tế khi dân cư trong nước mua hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra ở các nước khác. Một nước nhập khẩu càng nhiều thì đồng tiền của nước ấy sẽ được đưa vào htị trường tiền tệ quốc tế càng nhiều. Đường cung về tiền của một nước trên thị trường ngoại hối là hàm số của tỷ giá hối đoái của nó. Đường này dốc lên trên về phía phải hàm ý là tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá nước ngoài càng rẻ hơn so với hàng hoá trong nước và hàng hoá được nhập hẩu vào nước đó càng nhiều. Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua thị trường ngoại hối (quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối). Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về một đồng tiền trên các thị trường ngoại hối hoặc làm giảm cung của nó đều có xu hướng làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên và ngược lại. 103 Hình 7.3. Thị trường ngoại hối của VND so với USD 7.2.3. Các nguyên nhân của sự dịch chuyển các đường cung và cầu về tiền trên thị trường ngoại hối * Cán cân thương mại - Nhập khẩu (IM) tăng thì đường cung về tiền tệ (Sd) của nước ấy sẽ dịch chuyển sang phải, tỷ giá hối đoái (e) giảm. - Xuất khẩu tăng thì đường cầu về tiền (Dd) dịch chuyển sang phải, tỷ giá hối đoái (e) tăng. * Tỷ lệ lạm phát tương đối Nếu tỷ lệ lạm phát của nước A cao hơn nước B, thì cần nhiều đồng tiền của nước A mới mua được một đồng tiền của nước B, làm giảm đường Sd dịch chuyển sang phải, tỷ giá hối đoái (e) giảm. * Sự vận động của vốn Nếu lãi suất của nước A cao hơn lãi suất của nước B, thì khả năng sinh lời của đồng tiền của nước A cao hơn của nước B, dẫn đến có thể có nhiều người nước ngoài mua tài sản của nước A, kết quả cầu tiền của nước A tăng (Ddtăng), tỷ giá hối đoái (e) tăng. * Dự trữ và đầu cơ ngoại tệ Tất cả đều có thể làm dịch chuyển cả đường cung và đường cầu về ngoại tệ. 7.3. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 7.3.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái - Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền tệ của nước khác. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái là mức giá mà tại đó đồng tiền của nước này chuyển đổi ra đồng tiền của nước khác. eUSD/VND e0 O Q0 QVND Dd Sd 104 - Tỷ giá hối đoái được thể hiện bằng số lượng đơn vị ngoại tệ đổi lấy một đơn vị nội tệ gọi là tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ và được ký hiệu là e. e = Giá trị của đồng tiền nước ngoài Giá trị của đồng tiền trong nước Ví dụ: Đối với người dân Pháp cứ 0,20 đôla (USD) đổi lấy một franc Pháp (FF). Ta có: e = 0,20 (USD/FFr). Khi tỷ giá hối đoái tăng, chúng ta nói đồng nội tệ đã tăng giá và ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm, đó là đồng nội tệ đã giảm giá. Tỷ giá hối đoái nội tệ thường được công bố ở Anh và Mỹ. - Tỷ giá hối đoái được thể hiện bằng số lượng đơn vị nội tệ đổi lấy một đơn vị ngoại tệ gọi là tỷ giá hối đoái ngoại tệ và được ký hiệu là E. E = Giá trị của đồng tiền trong nước Giá trị của đồng tiền nước ngoài Ví dụ: ở Việt Nam 14000 VND đổi lấy 1 USD. Ta có E = 14000 (VND/USD) Tỷ giá hối đoái mà chúng ta nói ở đây là tỷ giá hối đoái danh nghĩa, tỷ giá hối đoái được xác định trên thị trường ngoại hối. Để loại trừ ảnh hưởng của chênh lệch lạm phát giữa các nước, ta sử dụng tỷ giá hối đoái thực tế. f n Î P Pe e .  Trong đó: er: Tỷ giá hối đoái thực tế của đồng nội tệ e: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa của đồng nội tệ Pn: Chỉ số giá trong nước Pf: Chỉ số giá nước ngoài er phản ánh đúng sức mua và sức cạnh tranh của một nước. Nếu er tăng thì có nghĩa là hàng hoá trong nước đắt tương đối so với hàng hoá nước ngoài và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ giảm và ngược lại. Nếu hai nước có tốc độ lạm phát như nhau thì tỷ giá hối đoái danh nghĩa chính là tỷ giá hối đoái thực tế. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (Nominal foreign exchange rate) là tỷ giá tương đối giữa đồng tiền của hai nước. Thông thường được hiểu là số lượng nội tệ cần thiết để đổi láy một đơn vị ngoại tế (ký hiệu là E); còn có thể được hiểu là số lượng ngoại tệ cần thiết để đổi lấy một đơn vị nội tệ (ký hiệu là e). Tỷ giá hối đoái thực tế (Real foreign exchange rate) là tỷ giá mà tại đó hàng hoá của một nước được trao đổi với hàng hoá của một nước khác. Tức là tỷ giá hối đoái thực tế cho chúng ta biết tỷ lệ màdựa vào đó hàng hoá của một nước được trao đổi với hàng hoá của nước khác. Vì vậy tỷ giá hối đoái thực tế còn được gọi là tỷ lệ trao đổi. Tỷ giá hối đoái thực tế (£ ) = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Giá hàng nội Giá hàng ngoại Tỷ giá hối đoái thực tế (£) = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (e) x Tỷ số giữa các mức giá (p/p*) Vậy, nếu tỷ giá hối đoái thực tế cao, hàng ngoại tương đối rẻ và hàng nội tương đối đắt. Nếu tỷ giá hối đoái thực tế thấp, hàng ngoại tương đối đắt và hàng nội tương đối rẻ. 105 7.3.2. Vai trò của tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái có vai trò rất quan trọng trong việc xác định sản lượng giá cả và việc làm. Bởi vì: - Tỷ giá hối đoái là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến xuất khẩu ròng hay cán cân thương mại quốc tế. Thật vậy, tỷ giá hối đoái tác động đến khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường quốc tế. Một khi giá cả sản phẩm nội địa rẻ tương đối so với sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế thì khả năng cạnh tranh tăng lên, xuất khẩu do đó có xu hướng tăng lên. Khả năng cạnh tranh về giá cả của mộtloại sản phẩm của một đất nước so với sản phẩm cùng loại sản xuất tại nước ngoài có thể xác định theo công thức: Khả năng cạnh tranh = E.Pf/Pn E: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa của đồng tiền ngoại tệ tính theo đồng tiền nội địa. Pf: Giá cả sản phẩm nước ngoài tính theo tiền nước ngoài. Pn: Giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính theo đồng nội địa. Khi E tăng giá cả sản phẩm nước ngoài trở nên đắt tương đối so với giá sản phẩm trong nước. Do đó, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước cao hơn. Xuất khẩu sẽ tăng, nhập khẩu giảm đi ít ra là trong thời gian ngắn. - Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn đến luồng chảy của vốn và do đó ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế. Khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền nội tệ tăng lên có nghĩa là đồng tiền nội tệ có giá trị cao hơn, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự do thì tư bản nước ngoài sẽ tràn vào thị trường trong nước. Nếu cán cân thương mại là cân bằng thì cán cân thanh toán quốc tế sẽ thặng dư. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước giảm, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự do thì tư bản trong nước sẽ chảy ra ngoài. Cán cân thương mại mà cân bằng thì cán cân thanh toán quốc tế sẽ thâm hụt. Như vậy, sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa làm thay đổi đến sự cân bằng của cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế. - Sự thay đổi tỷ giá hối đoái làm thay đổi xuất khẩu ròng và vì vậy làm thay đổi tổng cầu của nền kinh tế. Tổng cầu tăng lên sẽ làm sản lượng cân bằng và giá cả tăng lên, việc làm có nhiều hơn. Ngược lại, xuất khẩu ròng giảm, tổng cầu sẽ giảm, sản lượng cân bằng và giá cả giảm đi. - Tỷ giá hối đoái quan trọng còn vì nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài, do đó mà ảnh hưởng đến các nhà sản xuất và người tiêu dùng. Khi tỷ giá hối đoái đồng nội tệ tăng lên, giá trị của hàng xuất khẩu sẽ giảm đi, vì các nhà sản xuất bị thiệt thòi. Họ lo ngại khả năng lỗ có thể xảy ra. Còn hàng hoá nhập khẩu trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà kinh doanh do giá cả rẻ tương đối so với hàng hoá sản xuất trong nước. Ngược lại, đối với người tiêu dùng khi tỷ giá hối đoái tăng, người tiêu dùng trong nước mua được hàng hoá của nước ngoài nhập khẩu vào rẻ hơn, còn người tiêu dùng ngoài mua hàng hoá của nước chủ nhà sẽ bị đắt hơn. Khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ khuyến khích các nhà sản xuất tăng giá trị hàng hoá xuất khẩu vì có cơ hội kiếm thêm lợi nhuận, còn việc nhập khẩu trở nên không hấp dẫn vì nhà kinh doanh có thể bị lỗ. 106 Đối với người tiêu dùng thì ngược lại. Khi tỷ giá hối đoái giảm xuống, người tiêu dùng trong nước phải mua hàng hoá của nước ngoài nhập khẩu đắt hơn, còn người tiêu dùng nước ngoài mua hàng hoá của nước chủ nhà sẽ rẻ hơn. Tóm lại, khi tỷ giá hối đoái tăng lên, các nhà sản xuất bị thiệt do giá cả hàng hoá trong nước ở nước ngoài đắt hơn làm giảm sức cạnh tranh quốc tế và còn thiệt do giá trị hàng hoá xuất khẩu bị giảm đi. Còn người tiêu dùng lại được lợi vì giá cả hàng hoá nước ngoài ở trong nước sẽ rẻ hơn và hàng hoá sẽ nhiều hơn, nhà nhập khẩu lúc này có lợi. Khi tỷ giá hối đoái đồng nội tệ giảm đi, hàng hoá trong nước ở nước ngoài trở nên rẻ hơn làm tăng sức cạnh tranh quốc tế, vì vậy lúc này các nhà sản xuất được lợi vì giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng lên, và khuyến khích sức cạnh tranh. Còn người tiêu dùng bị thiệt thòi vì giá cả hàng hoá nước ngoài ở trong nước sẽ đắt hơn và hàng hoá thì ít đi do nhập khẩu bất lợi. 7.3.3. Các hệ thống tỷ giá hối đoái a. Hệ thống tỷ giá cố định Là hệ thống tỷ giá hối đoái mà trong đó Chính phủ của các nước tham gia hệ thống này đồng ý duy trì tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước mình so với vàng hoặc so với đôla Mỹ không đổi. Tức là mọi người có thể chuyển đổi ngoại tệ lấy nội tệ hay ngược lại theo tỷ giá mà Chính phủ công bố. Hệ thống tỷ giá này được thành lập vào cuối đại chiến thế giới lần thứ 2. Một hội nghị quốc tế được tổ chức ở Bretton Woods, New Hampshise (Mỹ) đã hoạch định "Một hệ thống các tỷ giá hối đoái có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do". Hệ thống này đã quy định giá trị của đồng đôla Mỹ được cố định theo vàng: 35 đôla Mỹ = 1 ounce vàng. Tiền của các nước tham gia hệ thống được cố định theo đồng đôla Mỹ. Ngân hàng Trung ương của các nước này có trách nhiệm duy trì các tỷ giá hối đoái của họ bằng việc mua và bán đôla trên thị trường ngoại hối. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF được tạo ra để quản lý hệ thống này và làm một số chức năng của ngân hàng trung ương quốc tế. Song hệ thống này đã vấp phải một số khó khăn: - Dự trữ không tương xứng với quy mô thương mại quốc tế tăng lên nhanh chóng trong những năm 50 và 60 gây nên những biến động tiền tệ lớn. Điều này đòi hỏi các ngân hàng Trung ương phải mua và bán đôla nhiều lên nhằm duy trì các tỷ giá hối đoái đã thoả thuận. - Các điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo xu hướng lâu dài. Các tỷ lệ tăng về xuất khẩu và nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất khác nhau giữa các nước gây nên những thay đổi dài hạn về giá trị tương đối của tiền tệ. - Gây ra các cuộc khủng hoảng mang tính đầu cơ. Khi đã rõ ràng rằng một đồng tiền được đánh giá quá cao hoặc quá thấp so với tỷ giá hiện tại của nó, thì các nhà đầu cơ sẽ mua hoặc bán những lượng tiền lớn theo dự đoán của họ về sự thay đổi tỷ giá hối đoái gây nên sự khủng hoảng về tiền tệ. Để duy trì tỷ giá cố định thì Ngân hàng Trung ương phải chi tiêu những lượng tiền ngoại tệ lớn. - Vào năm 1971, các nước không còn khả năng đảm bảo rằng những đồng đôla có thể được chuyển đổi thành vàng buộc Chính phủ Mỹ phải xoá bỏ chế độ bản vị vàng của đồng đôla. Vì những khó khăn trên mà hệ thống tỷ giá hối đoái cố định tồn tại từ năm 1944 đến 1971. 107 b. Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn (linh hoạt) Là hệ thống tỷ giá hối đoái trong đó chính phủ của các nước theo hệ thống này cho phép tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước mình được thay đổi một cách hoàn toàn tự do tuỳ thuộc vào cung và cầu của thị trường ngoại hối không có sự can thiệp của chính phủ. Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn gặp phải những khó khăn sau: - Có sự vận động về vốn do những khác biệt về lãi suất trong các nước gây ra. Những luồng vốn lớn chảy vào nước có lãi suất cao đẩy tỷ giá hối đoái của nước này lên không kể các điều kiện thương mại như thế nào. - Đầu cơ tiền tệ quốc tế cũng dẫn tới việc tăng và giảm khá lớn các tỷ giá hối đoái, tách khỏi sự ngang bằng của sức mua trong thời gian dài gây khó khăn cho các hoạt động thương mại. - Sự thay đổi về cơ cấu trong và giữa các nền kinh tế. Các giá trị tương đối của nhiều hàng hoá đã thay đổi cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp mới và sự suy giảm của các ngành cũ làm cho giá trị thực tế thay đổi so với các giá trị dự kiến thông qua sự ngang bằng sức mua. Vì vậy về mặt lý thuyết; các tỷ giá hối đoái được điều chỉnh một cách tự động theo những thay đổi của lạm phát, cán cân thương mại và luồng vốn nhằm duy trì "sự ngang bằng sức mua" sao cho có thể mua được lượng hàng nhất định từ cùng một lượng tiền của một trong hai nước. Ví dụ: Nếu chai rượu vang giá 15$ ở Mỹ và 45 franc ở Pháp thì tỷ giá sẽ là 3 franc một đôla. Nhưng trong thực tế các tỷ giá hối đoái đã thay đổi rất mạnh và đã tách rời khỏi sự ngang bằng của sức mua trong những thời kỳ dài. Cho nên trong thực tế, không quốc gia nào áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn. c. Hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý Là hệ thống tỷ giá hối đoái trong đó chính phủ của các quốc gia theo hệ thống này cho phép tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước mình thay đổi trong một giới hạn nhất định. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới theo cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Tuy hệ thống này cũng gặp phải khó khăn như hệ thống tỷ giá hối đoái cố định nhưng nó được chấp nhận như một biện pháp ổn định nền kinh tế. 7.4. CÁC CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CHỦ YẾU Để tổ chức và quản lý các hoạt động thương mại trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là để thực hiện chính sách ngoại thương, người ta thường sử dụng rất nhiều công cụ và biện pháp khác nhau. Dưới đây sẽ đề cập đến nội dung và hình thức của một số công cụ được áp dụng phổ biến trong thực tế thương mại hiện nay. 7.4.1. Thuế quan (thuế xuất nhập khẩu) Là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu khi qua khu vực thuế quan của một nước.Nhà nước sử dụng công cụ thuế quan nhằm hai mục tiêu: Một là, quản lý xuất nhập khẩu, nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương, góp phần bảo vệ sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng; Hai là, tăng thu ngân sách. Mặc dù trong những năm gần đây, vai trò của thuế trong thương mại quốc tế đang bị giảm dần trong các nước chậm phát triển, song khoản thu về thuế trong thương mại quốc tế vẫn chiếm vị trí đáng kể, đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu. Cho đến nay, thuế quan nhập khẩu vẫn là công cụ được sử dụng rất rộng rãi nhất trong chính sách thương mại của các chính phủ trên thế giới. Đối với một nền kinh tế quy mô nhỏ khi đánh thuế nhập khẩu sẽ không làm ảnh hưởng đến giá cả thế giới. 108 Thông thường thuế quan nhập khẩu dẫn đến giá nội địa cao lên làm cho mức tiêu dùng nội địa giảm đi, sản xuất trong nước có điều kiện tăng lên do đó khối lượng hàng nhập khẩu bị giảm bớt. Thuế nhập khẩu tạo ra sự phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa (vì phải mua hàng với giá cao hơn) sang người sản xuất trong nước (vì nhận được mức giá cao hơn) đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư thừa của một quốc gia sang các nhân tố khan hiếm của quốc gia khác, Chính phủ là người nhận được khoản thu về thuế, còn gánh nặng của thuế do người tiêu dùng phải chịu. Thuế quan nhập khẩu cũng dẫn đến những tổn thất cho nền kinh tế do hạn chế tự do hoá thương mại, tổn thất này gọi là chi phí bảo hộ. Hình thức phổ biến nhất để hạn chế thương mại tự do là thuế quan hay thuế nhập khẩu. Mức độ bảo hộ thực tế phụ thuộc vào tỷ lệ phần trăm giữa thuế quan danh nghĩa và phần giá trị gia tăng nội địa. Thuế quan danh nghĩa là thuế quan được áp dụng với sản phẩm cuối cùng. Thuế quan danh nghĩa là quan trọng với người tiêu dùng còn mức độ bảo hộ thực tế lại có ý nghĩa đối với nhà sản xuất vì nó cho biết việc bảo hộ ở mức nào để họ có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Tỷ lệ phần trăm giữa thuế quan danh nghĩa với giá trị gia tăng nội địa sẽ nói lên mức độ bảo hộ cao hay thấp cho các ngành sản xuất trong nước. Mức độ bảo hộ thực tế = Thuế quan danh nghĩa Giá trị gia tă

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtkt0029_p2_9464.pdf
Tài liệu liên quan