Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
của Kinh tế học Vĩ mô
• Sự khan hiếm nguồn lực và đường giới
hạn khả năng sản xuất
• Xác định và phân tích các mục tiêu (tăng
trưởng cao, giảm thất nghiệp, kiềm chế
lạm phát,.) và các chính sách Kinh tế Vĩ
mô (chính sách tài khóa, chính sách tiền
tệ, chính sách thu nhập, chính sách kinh
tế đối ngoại)
• Phân tích biến động của sản lượng, việc
làm, và giá cả trong nền kinh tế trên mô
hình AD – AS
• Phân tích mối quan hệ giữa các biến số
kinh tế vĩ mô cơ bản
• Phân tích các nội dung các nhà kinh tế
học vĩ mô nghiên cứu (dự báo kinh tế vĩ
mô, phân tích kinh tế vĩ mô, nghiên cứu
kinh tế vĩ mô) và giải thích vì sao các
nhà kinh tế học vĩ mô có nhiều quan
điểm khác nhau
32 trang |
Chia sẻ: hongha80 | Lượt xem: 562 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kinh tế học vĩ mô - Bài 1: Khái quát về kinh tế học vĩ mô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh
tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt
đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh
của chu kỳ kinh tế.
Hình 1.14. Chu kỳ kinh tế của Mỹ giai đoạn 2000 – 2007
Nhìn vào hình 1.12:
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền kinh tế
đã sang pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đổi chiều
giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu
hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một số đặc điểm
thường gặp của suy thoái là:
• Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh
nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo
theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
• Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp
theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
• Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi
nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong
giai đoạn kinh tế suy thoái.
• Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo
khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng
giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
24
Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái,
khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng
theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt,.v.v.
không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu
hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở Việt Nam cho đến đầu thập niên 1990, trong một
số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn
pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Hiện nay không còn thấy cách
gọi này nữa ở Việt Nam.
Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế:
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào
hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo một cách chính
xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy
thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy
thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho
đến thị trường vốn,.v.v. thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
Mức giá
(P)
Sản lượng
(Y)
Sản lượng
tiềm năng
Y
0
Y
1
P
P
AD
AD’
AS
0
Hình 1.15. Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh tế
Một sự suy giảm của tổng cầu, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD → AD’, mức giá chung
và sản lượng cân bằng đều giảm.
Mức giá
(P)
Sản lượng
(Y)
Sản lượng
tiềm năng
Y
0
Y
1
0
P’
P
AD
AS’
AS
Hình 1.16. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế và biện pháp đối phó
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
25
Khi có một sự suy giảm của tổng cung, đường tổng cung dịch chuyển sang trái từ AS→AS’,
mức giá chung tăng lên từ 'P P→ , thu nhập cân bằng giảm.
Chu kỳ kinh tế khiến cho kế hoạch kinh doanh của khu vực tư nhân và kế hoạch kinh tế của
Nhà nước gặp khó khăn. Việc làm và lạm phát cũng thường biến động theo chu kỳ kinh tế.
Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất,
chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được Nhà nước đặt ra. Tuy nhiên,
vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường phái kinh tế vĩ mô giống nhau,
nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau.
• Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo,
khiến cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng chính
sách quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi nền kinh tế khuếch trương thì lại chuyển hướng các chính
sách đó sang thắt chặt. Hình 15 minh họa một sự suy thoái do tổng cầu giảm: Tổng cầu
dịch chuyển từ AD sang AD' khiến cho sản lượng giảm từ Y0 xuống Y1 và giá cả giảm
từ P đến P' (lạm phát giảm).
• Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do sự
can thiệp của Chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự tính. Vì thế, để không xảy
ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều chỉnh sau các cú sốc cung, Chính phủ
không nên can thiệp gì cả. Hình 16 minh họa một trường hợp suy thoái do tổng cung
giảm: Vì lý do nào đó (ví dụ giá đầu vào tăng đột biến) tổng cung giảm từ AS đến AS'
khiến cho sản lượng giảm từ Y0 xuống Y1 nhưng giá cả lại tăng từ P lên P' (lạm phát tăng).
Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là:
• Lý thuyết tiền tệ: Cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của chính sách
tiền tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel
kinh tế năm 1976, người đứng đầu trường phái Chicago Milton Friedman. Lý thuyết này
tỏ ra phù hợp với cuộc suy thoái của kinh tế Mỹ 1981 – 1982 khi Cục Dự trữ Liên bang
tăng lãi suất danh nghĩa tới 18% để chống lạm phát.
• Mô hình gia tốc – số nhân: Do Paul Samuelson đưa ra, mô hình này cho rằng các biến
động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc trong đầu tư
tạo ra những dao động có tính chu kỳ của GDP.
• Lý thuyết chính trị: Đại diện là các nhà kinh tế học như William Nordhaus, Michał
Kalecki,... Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế
vì họ hướng các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử.
• Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: Với những đại diện như Robert Lucas,
Jr., Robert Barro, Thomas Sargent,... phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận
động của giá cả, tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc quá ít dẫn đến
các chu kỳ của sản lượng và việc làm. Một trong những phiên bản của lý thuyết này là tỷ
lệ thất nghiệp cao trong suy thoái là do mức lương thực tế của công nhân cao hơn mức
cân bằng của thị trường lao động.
• Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: Lập luận rằng những biến động tích cực hay tiêu
cực về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh tế và gây ra
những dao động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là nhà kinh tế học
đoạt giải Nobel năm 2004 Edward Prescott, Charles Prosser,...
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
26
Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý thuyết nào tỏ ra
đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi. Ngày nay, khi quan sát các chu kỳ kinh tế ở các nền kinh tế
công nghiệp phát triển, người ta phát hiện ra hiện tượng pha suy thoái càng ngày càng ngắn
về thời gian và nhẹ về mức độ thu hẹp của GDP thực tế. Một trong những nguyên nhân
quan trọng là Chính phủ các nước này đã hiểu biết và vận dụng tốt hơn những hiểu biết về
kinh tế vĩ mô. Bằng cách kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, Nhà nước
có thể ngăn chặn một cuộc suy thoái biến thành khủng hoảng.
Dự báo chu kỳ kinh tế:
Các chuyên gia kinh tế đã tìm cách xây dựng và phát triển công cụ dự báo những thay đổi
trong nền kinh tế. Những mô hình đơn giản nhất dựa trên số liệu dễ thu thập như sản lượng
một số tư liệu sản xuất quan trọng (thép,...), khối lượng hàng hóa vận chuyển,... rồi công
thức hóa số liệu thống kê để đưa ra chỉ số có tính chất dự báo. Dần dần, với sự phát triển của
công nghệ thông tin, người ta đã xây dựng những mô hình kinh tế lượng phức tạp với hàng
chục nghìn biến số cùng những hệ phương trình phức tạp để dự báo. Đi tiên phong trong sự
phát triển công cụ dự báo là những nhà kinh tế học Jan Tinbergen (giải Nobel năm 1969),
Lawrence Klein (giải Nobel năm 1980). Chính nhhờ đó, dự báo biến động kinh tế vĩ mô đã
có độ tin cậy lớn hơn mặc dù nó chưa đạt độ chính xác cao khi có những thay đổi về những
chính sách lớn.
1.5.2. Tăng trưởng và thất nghiệp
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng
đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Như vậy, nếu tăng trưởng nhanh thì thất nghiệp có
xu hướng giảm đi và ngược lại.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp được lượng hóa dưới tên gọi
quy luật Okun (Arthur Okun – 1929 – 1979) hay quy luật (2,5 – 1). Quy luật nói lên, nếu
GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm, so với GNP tiềm năng của năm đó, thì tỷ lệ
thất nghiệp sẽ giảm đi đúng 1%. Quy luật này mang tính chất gần đúng và chỉ cho một nhận
định khái quát về mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp ở những nước có thị trường
phát triển.
1.5.3. Tăng trưởng và lạm phát
Các sự kiện lịch sử ở nhiều nước cho thấy những thời kỳ kinh tế phát đạt, tăng trưởng cao
thì lạm phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. Song giữa tăng trưởng và lạm phát có mối
quan hệ như thế nào, đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả? Về vấn đề này, kinh tế vĩ mô chưa
có câu trả lời rõ ràng.
Nhưng điều rõ ràng là muốn giảm lạm phát trong thời kỳ ngắn thì các chính sách kinh tế
đều hướng vào việc thắt chặt chi tiêu, giảm tổng cầu và do đó nền kinh tế phải trải qua một
thời kỳ đình đốn, suy thoái và thất nghiệp.
Lý thuyết về mối quan hệ này thì lạm phát được coi là một hiện tượng tất yếu của các nền
kinh tế đang tăng trưởng trong khi phải đối phó với những mất cân bằng mang tính cơ cấu.
Các nhà cơ cấu cho rằng giữa lạm phát có mối quan hệ tỉ lệ thuận, tức là nếu có tăng trưởng
kinh tế tất yếu có lạm phát. Những lỗ lực nhằm kiềm chế lạm phát có xu hướng làm tăng
tỉ lệ thất nghiệp và gây ra tình trạng trì trệ trong sản xuất dẫn tới bất lợi cho tăng trưởng:
Trong thực tế, bất kể một quốc gia nào đều đã trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế và tỷ lệ
lạm phát tăng với quy mô khác nhau. Tỷ lệ lạm phát tăng cao sẽ đẩy giá cả hàng hóa chung
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
27
tăng lên mà tiền lương danh nghĩa của các công nhân không tăng, do đó tiền lương thực tế
của họ sẽ giảm đi. Để tồn tại các công nhân sẽ phải tổ chức đấu tranh, bãi công đòi tăng
lương, do đó làm cho sản xuất đình trệ đồng thời khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn,
tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. Lúc này, nền kinh tế gặp khó khăn, suy thoái dẫn đến thâm
hụt ngân sách tạo điều kiện gây ra lạm phát càng tăng cao.
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế luôn là hai mặt song song tồn tại trong nền kinh tế của
bất kỳ một quốc gia nào. Vì bên cạnh những hậu quả mà lạm phát đem lại, thì lạm phát ở
mức vừa phải sẽ tạo động lực thúc đẩy các nước đang phát triển tăng trưởng. Bởi lẽ lạm
phát sẽ làm tăng tiết kiệm và đầu tư do chuyển thu nhập từ những người làm công ăn lương
sang tăng thu nhập của doanh nghiệp lấy lãi. Nếu giá càng tăng sẽ càng làm tăng khoản tiết
kiệm từ lợi nhuận cao hơn và tăng khoản tiết kiệm từ tiền lương. Kết quả đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát có tác động làm phân phối lại thu nhập từ khu vực tư nhân sang khu vực Nhà
nước do vậy có thể làm tăng trưởng kinh tế. Việc dự báo và điều chỉnh hoàn toàn được lạm
phát thì lạm phát sẽ làm tăng nguồn thu cho Nhà nước, mà đây cũng là nguồn đầu tư thực tế
của một quốc gia. Như vậy, nó sẽ làm tăng đầu tư và kết quả cuối cùng là thúc đẩy kinh tế
tăng trưởng.
Tuy nhiên, khi lạm phát quá cao không có khả năng kiểm soát và có sự điều chỉnh hợp lý
của Chính phủ lại làm mức lãi suất thực tế giảm gây ra sự mất cân bằng trong thị trường
vốn. Dẫn tới cung nguồn vốn đầu tư giảm làm đầu tư tư nhân bị hạn chế. Như vậy, lạm phát
cao đưa đến giảm lãi suất thực dương và thị trường vốn mất cân bằng, kết quả đầu tư và
tăng trưởng kinh tế đều giảm.
Nếu lạm phát cao và biến đổi liên tục sẽ làm đầu tư tư nhân có xu hướng đổ sang đầu tư thu
lợi nhuận bằng các dự án đầu tư ngắn hạn. Lúc này, chất lượng đầu tư không được đảm bảo.
Bên cạnh đó, nguồn đầu tư dài hạn thì thiếu trong khi lượng vốn trong nước dư thừa.
Bảng 1.4: Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát Việt Nam
Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993
Tốc độ tăng trưởng 2,33 3,78 4,86 8,1 5,3 6,1 8,6 7,9
Tỷ lệ lạm phát 747,4 231,8 393,8 34,7 67,4 67,6 17,6 5,2
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Tốc độ tăng trưởng 9 9,5 9,3 8,8 6,3 4,8 6,8 6,9
Tỷ lệ lạm phát 14,4 12,7 4,5 3,6 6,8 4,4 –1,6 –0,4
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tốc độ tăng trưởng 6,8 6,9 7,1 7,3 7,8 8,4 8,2 8,5
Tỷ lệ lạm phát –1,6 –0,4 4 4,3 9,4 8,4 6,6 12,63
Nguồn: Tổng cục Thống kê
1.5.4. Lạm phát và thất nghiệp
Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp được giải thích bởi mô hình đường Phillips (mối
quan hệ này được phân tích kỹ ở bài 7 trong cuốn giáo trình này). Đường cong Phillips biểu
thị quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát (đường cong Phillips phiên bản lạm
phát) hoặc giữa tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng GDP (đường cong Phillips phiên
bản GDP). Đường này được đặt theo tên Alban William Phillips, người mà vào năm 1958
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
28
đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm dựa trên dữ liệu của nước Anh từ năm 1861 đến năm
1957 và phát hiện ra tương quan âm giữa tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng của mức tiền lương
danh nghĩa.
Kinh tế Mỹ thập niên 1960 có hiện tượng tỷ lệ lạm phát khá cao mặc dù tốc độ tăng trưởng
GDP cũng cao. Để giải thích hiện tượng đó, các nhà kinh tế của trường phái Kinh tế học
Vĩ mô tổng hợp đã sử dụng kết quả nghiên cứu của Phillips và dựng nên đường cong
Phillips dốc xuống phía phải trên một đồ thị 2 chiều với trục hoành là mức tỷ lệ thất nghiệp
và trục tung là mức tỷ lệ lạm phát. Đường này là các kết hợp giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất
nghiệp. Dọc theo đường cong Phillips, hễ tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống thì tỷ lệ lạm phát sẽ
tăng lên, và ngược lại.
Từ đó, trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp lý luận rằng để giảm tỷ lệ thất nghiệp Chính
phủ đã sử dụng chính sách quản lý tổng cầu, song do tỷ lệ thất nghiệp có quan hệ ngược
chiều bền vững với tỷ lệ lạm phát, nên tăng trưởng kinh tế cao đương nhiên gây ra lạm phát.
Lạm phát là cái giá phải trả để giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Sau khi lạm phát tăng tốc, cá nhân với hành vi kinh tế điển hình (hành vi duy lý) sẽ dự tính
lạm phát tiếp tục tăng tốc. Trong khi tiền công danh nghĩa không đổi, lạm phát tăng nghĩa là
tiền công thực tế trả cho họ giảm đi. Họ sẽ giảm cung cấp lao động, thậm chí tự nguyện
|thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp lại tăng lên đến mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, trong khi tỷ lệ
lạm phát vẫn giữ ở mức cao.
Nếu Nhà nước vẫn cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tự nhiên, cơ chế như trên
lại xảy ra. Hậu quả là, trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức tự nhiên mà tỷ lệ lạm phát
lại bị nâng lên liên tục. Chính sách của Nhà nước như vậy là chỉ có tác dụng trong ngắn hạn,
còn về dài hạn là thất bại.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
29
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Sau khi nghiên cứu xong bài 1, chúng ta có thể tóm lược một số nội dung nổi bật như sau:
• Các nguồn lực trong xã hội đều là những nguồn lực khan hiếm. Kinh tế học là môn khoa học
nghiên cứu cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm nhằm thỏa mãn các nhu cầu không có giới
hạn của con người một cách tốt nhất. Kinh tế học bao gồm hai bộ phận là Kinh tế học vi mô và
Kinh tế học Vĩ mô.
• Kinh tế học Vĩ mô nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất
nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế học Vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của
mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất
nghiệp, cán cân thương mại, các chính sách kinh tế (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính
sách thu nhập,).
• Chi phí cơ hội của một lựa chọn thay thế được định nghĩa như chi phí do đã không lựa chọn cái
thay thế "tốt nhất kế tiếp". Trong kinh tế học, chi phí cơ hội là sự lựa chọn tốt nhất bị bỏ lỡ. Bất
cứ quyết định nào bao gồm trong số nhiều lựa chọn đều có chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là một
trong những điểm khác biệt mấu chốt giữa khái niệm chi phí kinh tế và chi phí kế toán.
• Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) là một tập hợp các phối hợp tối đa số lượng các sản
phẩm mà nền kinh tế có thể sản xuất được trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Các điểm nằm
trong đường giới hạn, là những điểm không hiệu quả vì ở đó xã hội bỏ phí các nguồn lực. Những
điểm nằm ngoài đường PPF là những điểm không thể đạt được. Để đạt được các điểm này, cần
phải tìm cách đẩy đường PPF ra ngoài bằng các biện pháp như: Đổi mới công nghệ, thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô,
• Thành tựu kinh tế vĩ mô của một đất nước thường được đánh giá theo 3 dấu hiệu chủ yếu:
Ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng, công bằng,
các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới 5 mục tiêu: Đạt mức sản lượng cao và tốc độ tăng
trưởng nhanh, tạo ra nhiều công ăn việc làm tốt và tỷ lệ thất nghiệp thấp, ổn định giá cả và kiềm
chế lạm phát, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
và ổn định tỷ giá hối đoái, phân phối công bằng trong thu nhập.
• Các chính sách kinh tế vĩ mô chính thường bao gồm: Chính sách tài khoá, Chính sách tiền tệ,
Chính sách thu nhập, Chính sách kinh tế đối ngoại.
• Tổng cung (AS) bao gồm tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các doanh nghiệp sẽ sản xuất
và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất đã cho.
Tổng cung liên quan đến khái niệm sản lượng tiềm năng. Đó là sản lượng tối đa mà nền kinh tế có
thể sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không gây nên lạm phát. Đường tổng cung
dài hạn là đường song song với trục tung và cắt trục hoành ở mức sản lượng tiềm năng. Đường
tổng cung ngắn hạn: Đường tổng cung ban đầu tương đối nằm ngang, khi vượt qua điểm sản lượng
tiềm năng, đường tổng cung sẽ dốc ngược lên. Tổng cầu (AD) là tổng khối lượng hàng hoá và dịch
vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế muốn mua và có khả năng mua ở mức giá cả, thu nhập và các
biến số kinh tế khác nhau đã cho. Đường tổng cầu thường là đường dốc xuống.
• Trạng thái cân bằng của nền kinh tế: Cân bằng tổng cung và tổng cầu còn gọi là cân bằng của thị
trường hàng hoá và dịch vụ của quốc gia. Tại trạng thái cân bằng dài hạn, mức sản lượng Y0 bằng
mức sản lượng tiềm năng Y*, tại đó tỷ lệ lạm phát bằng lạm phát dự kiến, giá cả bình ổn, tỷ lệ thất
nghiệp là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
30
• Chu kỳ kinh tế là sự dao động của GNP thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng
tiềm năng theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Độ lệch giữa sản
lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt sản lượng.
Khoảng cách sản lượng = Sản lượng tiềm năng – Sản lượng thực tế
• Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng đã
sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Như vậy, tăng trưởng nhanh thì thất nghiệp có xu hướng
giảm đi. Theo một số kiểm chứng, mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp
được lượng hóa dưới tên gọi quy luật Okun (Arthur Okun – 1929 – 1979) hay quy luật (2,5 – 1).
Quy luật nói lên, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm, so với GNP tiềm năng của năm
đó, thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm đi đúng 1%.
• Sự kiện lịch sử nhiều nước cho thấy những thời kỳ kinh tế phát đạt, tăng trưởng cao thì lạm
phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. Muốn giảm lạm phát trong thời kỳ ngắn, các chính sách
kinh tế đều hướng vào việc thắt chặt chi tiêu, giảm tổng cầu và do đó nền kinh tế phải trải qua một
thời kỳ đình đốn, suy thoái và thất nghiệp. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế luôn là 2 mặt song song
tồn tại trong nền kinh tế của bất kể một quốc gia nào. Vì bên cạnh những hậu quả mà lạm phát đem
lại, thì lạm phát ở mức vừa phải sẽ tạo động lực thúc đẩy các nước đang phát triển tăng trưởng.
• Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp được giải thích bởi mô hình đường Phillips (mối quan
hệ này được phân tích kỹ ở bài 7 trong cuốn giáo trình này). Đường Phillips biểu thị sự đánh đổi
giữa lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
31
CÂU HỎI ÔN TẬP
Trả lời đúng, sai và giải thích ngắn gọn các câu hỏi dưới đây:
1. Mục tiêu hàng đầu của một nước đang phát triển nhằm thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế là đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2. Sản lượng tiềm năng là mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có khả năng sản xuất được trong điều
kiện toàn dụng nhân công và không gây lạm phát.
3. Khi tiền công và tiền lương của người lao động tăng thì cả đường AS trong ngắn hạn và đường AD
sẽ dịch chuyển.
4. Tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với nhau.
5. Tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ ngược chiều với nhau.
6. Tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát có mối quan hệ ngược chiều với nhau.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
32
BÀI TẬP LỚN
1. Phân tích sự thay đổi trạng thái cân bằng của nền kinh tế trong mô hình AS-AD khi tiền công của
người lao động tăng lên.
2. Sử dụng đường giới hạn khả năng sản xuất để giải thích sự khan hiếm nguồn lực và quy luật chi
phí cơ hội ngày càng tăng dần.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_1_khai_quat_ve_kinh_te_hoc_vi_mo_0852_7341.pdf