Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại một số nước trong khu vực và vận dụng vào Việt Nam

Chúng ta xây dựng đất nước đi theo con đường Chủ nghĩa Xã hội từ một xuất phát điểm thấp: nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là làm thế nào để xây dựng lại đất nước bắt kịp với nền kinh tế thế giới, tránh tụt hậu xa hơn về mọi mặt đặc biệt là về kinh tế. Chúng ta không còn con đường nào khác là phải tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhằm đưa nền kinh tế - xã hội nước ta có những bước tiến nhanh, bắt kịp và hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Qua hơn 15 năm cải cách mở cửa nền kinh tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Nền kinh tế đã ra khỏi cuộc khủng hoảng của những năm 80 và luôn ở mức tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới, bộ mặt đất nước có những đổi thay đáng ghi nhận, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã cải thiện và ngày càng được nâng cao, văn hoá, giáo dục và y tế luôn được chú trọng phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị ổn định.

Để tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, đồng thời khắc phục những khó khăn cản trở mà chúng ta chưa vượt qua được trong thời gian qua, chúng ta cần học hỏi những kinh nghiệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá tại một số nước đang phát triển chúng ta qua đó đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và.

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là một vấn đề rộng lớn và bao gồm nhiều nội dung. Em quyết định chọn đề tài: "Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại một số nước trong khu vực và vận dụng vào Việt Nam". Trong quá trình nghiên cứu và làm đề tài này, mặc dù đã rất cố gắng, song do trình độ lý luận và nhận thức còn hạn chế nên bài viết không khỏi có những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của các thấy cô trong bộ môn để có được những nhận thức đầy đủ và chính xác hơn.

 

 

docx42 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại một số nước trong khu vực và vận dụng vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Chúng ta xây dựng đất nước đi theo con đường Chủ nghĩa Xã hội từ một xuất phát điểm thấp: nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là làm thế nào để xây dựng lại đất nước bắt kịp với nền kinh tế thế giới, tránh tụt hậu xa hơn về mọi mặt đặc biệt là về kinh tế. Chúng ta không còn con đường nào khác là phải tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhằm đưa nền kinh tế - xã hội nước ta có những bước tiến nhanh, bắt kịp và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Qua hơn 15 năm cải cách mở cửa nền kinh tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Nền kinh tế đã ra khỏi cuộc khủng hoảng của những năm 80 và luôn ở mức tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới, bộ mặt đất nước có những đổi thay đáng ghi nhận, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã cải thiện và ngày càng được nâng cao, văn hoá, giáo dục và y tế luôn được chú trọng phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị ổn định... Để tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, đồng thời khắc phục những khó khăn cản trở mà chúng ta chưa vượt qua được trong thời gian qua, chúng ta cần học hỏi những kinh nghiệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá tại một số nước đang phát triển chúng ta qua đó đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là một vấn đề rộng lớn và bao gồm nhiều nội dung. Em quyết định chọn đề tài: "Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại một số nước trong khu vực và vận dụng vào Việt Nam". Trong quá trình nghiên cứu và làm đề tài này, mặc dù đã rất cố gắng, song do trình độ lý luận và nhận thức còn hạn chế nên bài viết không khỏi có những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của các thấy cô trong bộ môn để có được những nhận thức đầy đủ và chính xác hơn. PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ I. Khái niệm, mục tiêu của CNH, HĐH. 1. Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phân phối tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao. 2. Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, nâng cao khả năng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là mục tiêu dài hạn, mục tiêu cuối cùng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. II. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá Mỗi phương thức sản xuất chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng với nó. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất là toàn bộ yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất ở trình độ phát triển nhất định của kỹ thuật - công nghệ, cùng với kết cấu xã hội của lực lượng sản xuất . CNXH chỉ có thể được xác lập vững chắc khi có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hưũ về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Trong lịch sử, sự thay thế các phương thức sản xuất bao giờ phương thức sản xuất sau cũng kế thừa cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước nó và trên cơ sở cải tạo, phát triển thành cơ sở vật chất - kỹ thuật của bản thân mình. Vì thế cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, một mặt , kế thừa những thành quả đã đạt được về vật chất - kỹ thuật trước đó, mặt khác, quan trọng hơn, nó được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật ấy đảm bảo tạo ra năng suất lao động cao hơn CNTB vì chỉ có như vậy mới chiến thắng được hoàn toàn và triệt để đối với CNTB. Nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp. Để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của CNXH cần phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là con đường tạo ra lực lượng sản xuất mới, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH ở nước ta. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất yếu khách quan đối với nước ta. 2. Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất , làm cho nền sản xuất xã hội không ngừng phát triển ,từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra tiền đề để củng cố khối liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tri thức - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ạo ra điều kiện để xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra điều kiện vật chất để củng cố và tăng cườn sức mạnh quốc phòng, an ninh - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra khả năng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế một cách hiệu quả III. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. a. Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại hoá trong các ngành của nền kinh tế quốc dân Nội dung cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là biến lao động thủ công thành lao động sử dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Để thực hiện được điều này phải trang bị khoa học - công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, tức là thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá và tự dộng hoá sản xuất. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần giải quyết đồng thời nhiều quá trình, nhiều mức độ khoa học - công nghệ mà các nước đi trước đã giải quyết ở những thời điểm khác nhau, phải biết thích nghi với công nghệ cao, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định b. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả. Cơ cấu kinh tế được xây dựng phải đáp ứng những yêu cầu sau: - Phản ánh đúng đắn yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, trước hết là yêu cầu của quy luật kinh tế. - Phù hợp với xu htế phát triển khoa học - công nghệ trên thế giới hiện nay - Phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế đang ngày càng phát triển cả về mặt chiều rộng lẫn về chiều sâu. Do đó cơ cấu kinh tế đó phải là cơ cấu kinh tế mở và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Cơ cấu kinh tế đó cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch: chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả sang cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ, hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. IV. Những tiền đề để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả Vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm các nguồn vốn trong nước và vốn vay cũng như viện trợ của nước ngoài. Trong đó vốn trong nước giữ vai trò quyết định, còn vốn bên ngoài có tầm quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Con đường (biện pháp) cơ bản để tạo vốn tích luỹ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá tổ chức lao động và tổ chức sản xuất, phải khai thác khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các ngành, các vùng, các đơn vị kinh tế phát triển đồng thời sử dụng vốn một cách tiết kiệm, có hiệu quả. Muốn vậy phải xoá bỏ bao cấp về vốn; thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu của chính phủ, trong sản xuất và trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển Đối với nguồn vốn bên ngoài phải tranh thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, vốn bên ngoài có tầm quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2. Phát triển nguồn nhân lực Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải có con người mới, một nguồn nhân lực có trình độ văn hoá và trình độ khoa học - kỹ thuật cao để có thể sử dụng khao học - công nghệ hiện đại. Đó là nguồn nhân lực của nền văn minh công nghiệp hiện đại, trong đó công nhân cũng được tri thức hoá. Để có nguồn nhân lực như vậy phải phát triển giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phải coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển 3. Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ Trong giai đoạn tới, việc xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ cần tập trung vào các hướng chủ yếu sau: - Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phát triển và kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ làm chỗ dựa khoa học cho việc triển khai cương lĩnh, đường lối của Đảng, xác định phương hướng, bước đi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội. - Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên và công nghệ tiên tiến trong tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng an ninh. - Nghiên cứu, đánh giá chính xác các nguồn tài nguyên để xác định chiến lược đúng đắn và khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên và môi trường, hạn chế hậu quả thiên tai. 4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Trong điều kiện kinh tế hiện nay, việc mở rộng kinh tế đối ngoại là một tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu được các nguồn vốn bên ngoài, tiếp thu được kỹ thuât, công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, đó mới chỉ là khả năng, để biến khả năng thành hiện thực, cần có đường lối đối ngoại đúng đắn, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ vững được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. 5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước Đây là tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một quá trình phức tạp, lâu dài để tạo ra những tiền đề vật chất đảm bảo sự thắng lợi của CNXH. Nó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ, là sự nghiệp của toàn dân, do đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước đưa ra và thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, huy động vốn trong và ngoài nước, phát triển nguồn nhân lực, giải quyết những vấn đề xã hội.... nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quản lý quá trình đó đạt hiệu quả cao. PHẦN II KINH NGHIỆM CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 1. KINH NGHIỆM CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN CHÂU Á Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển. Do xuất phát điểm khi bước vào quá trình này có khác nhau và những định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá khác nhau nên công nghiệp hoá, hiện đại hoá có sự đa dạng về mô hình. Lịch sử đã ghi nhận những thành công và thất bại của nhiều quốc gia trong công nghiệp hoá. Trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ tập trung vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở một số nước và vùng lãnh thổ có nền kinh tế thấp kém và có đặc điểm kinh tế - xã hội mang những nét tương đồng với nước ta như Đài Loan, Thái Lan, Malaysia… để làm rõ thêm thực tế trên. 1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Lan So với các nước đang phát triển ở châu Á như Nhật Bản hoặc các nước công nghiệp mới (Nics), Thái Lan là nước chậm trong phát triển công nghiệp. Tuy vậy, nước này đã nhận thức được tầm quan trọng của phát triển công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế, cũng như hiện đại hoá nền kinh tế. Tháng 10 năm 1954, Thái Lan đã công bố "Dự luật khuyến khích phát triển công nghiệp" và bắt đầu xúc tiến công nghiệp hoá với việc thành lập Ban đầu tư (BOI) năm 1959. Thực thi chính sách nghiêng về phát triển công nghiệp nhằm dùng công nghiệp hoá làm động lực phát triển toàn bộ nền kinh tế. Trong suốt những năm 60 qua 2 kế hoạch 5 năm (1961-1966), kế hoạch (1967-1971) Thái Lan nhấn mạnh vào việc phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu, với đặc trưng chủ yếu hướng vào thị trường trong nước. Nhà nước đã có những chính sách bảo hộ công nghiệp trong nước, khuyến khích các ngành công nghiệp sử dụng nhiều nguyên liệu và lao động trong nước. Do vậy, công nghiệp trong nước đã có khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu ở các lĩnh vực: dệt, hoá chất, chế biến thực phẩm… Trong suốt thập kỷ 60, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 10%. Tuy vậy, chính sách công nghiệp hoá hướng nội ở Thái Lan cũng đã bộc lộ những hạn chế. Thứ nhất, do công nghệ hạn chế, Thái Lan vẫn phải nhập máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất và nguyên liệu thô. Điều này có nghĩa là chính sách thay thế nhập khẩu không đạt được mục đích đề ra mà chỉ làm thay đổi cơ cấu nhập khẩu. Thứ hai, chính sách thay thế nhập khẩu còn tác động đến việc sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên trong nước do kỹ thuật lạc hậu và trình độ quản lý kinh tế yếu kém, chi phí lao động cao, năng suất thấp. Thứ ba, thực hiện chiến lược này, nhà nước đã can thiệp quá sâu vào hoạt động của nền kinh tế và chính sách thay thế nhập khẩu làm cho công nghiệp trong nước phát triển chậm chạp, trì trệ do thiếu động lực cạnh tranh. Để khắc phục những hạn chế của chiến lược hướng nội, Thái Lan đã hoạch định lại chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ 1972 Thái Lan đã chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Các kế hoạch 5 năm 1972-1976, 1977-1981, 1982-1986, 1987-1990, 1991-1995 đã thực hiện điều chỉnh sự phát triển của công nghiệp nhằm tranh thủ các nhân tố thuận lợi bên ngoài kết hợp với việc sử dụng các lợi thế trong nước để đa dạng hoá trong sản xuất kinh doanh đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Nhà nước đã có những chính sách và biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá như khuyến khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư trong nước, chính sách miễn thuế đối với hàng nhập khẩu và kinh doanh nguyên vật liệu và tư liệu sản xuất nhập phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Từ cuối thập kỷ 80, Thái Lan đã lấy công nghiệp hoá chất làm trọng tâm, chú ý đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, coi dầu tư nước ngoài là động lực để phát triển kinh tế. Để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Thái Lan vừa chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực vừa nhập khẩu công nghệ mới từ Nhật Bản và phương Tây. Thực tế cho thấy việc chuyển hướng chiến lược trong công nghiệp hoá đã mang lại những thành công đáng chú ý. Trong thập kỷ 70, tốc độ tăng trưởng GDP đạt khá cao trung bình 10%/năm, từ 1980-1990 đạt 7,6%; 1991-1995 là 8,6%. Từ 1987-1990, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp Thái Lan bình quân là 15% [113]. Những năm đầu của thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng kinh tế có chững lại nhưng tốc độ tăng trưởng công nghiệp vẫn có xu hướng tăng. Ngoại thương Thái Lan có xuất khẩu tăng nhanh: 1976 đạt kim ngạch 197 triệu USD, 1996 đạt 7,096 tỷ USD. Thu nhập quốc dân của Thái Lan cũng tăng nhanh đến năm 1998 đạt bình quân đầu người 2.450 USD [91]. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu kinh tế của Thái Lan đã có sự thay đổi theo hướng tích cực tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế có xu hướng giảm dần, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Bảng 1: Cơ cấu kinh tế Thái Lan (1960-1999) 1960 1970 1980 1985 1990 1999 Nông nghiệp 40 28 25 17 12 13 Công nghiệp và XD 26 32 36 41 46 40 Dịch vụ 34 40 39 42 42 47 Nguồn: World Development Report, World Bank, 1998, 1999, 2000 Sau hơn ba thập kỷ phát triển nhanh chóng, kinh tế Thái Lan đã bộc lộ những hạn chế. Đó là sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ nhập khẩu. Trong phát triển, có tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa quy mô đầu tư và khả năng tài chính. Tình trạng quá nóng của nền kinh tế, đặc biệt từ giữa thập kỷ 90, khiến nợ nước ngoài của Thái Lan gia tăng (chủ yếu là nợ ngắn hạn và trung hạn): chiếm tới 50% so với GDP (1997). Trong hoàn cảnh ấy, vai trò điều tiết, kiểm soát của hệ thống tài chính- ngân hàng trong đầu tư và cung ứng tiền tệ bộc lộ nhiều yếu kém. Đó chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan và lan rộng sang các nước Đông Nam Á và Đông Á vừa qua. Đối phó với tình hình ấy, Thái Lan buộc phải thực hiện điều chỉnh chiến lược công nghiệp hoá. 1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại ở Đài Loan Công nghiệp hoá ở Đài Loan được tiến hành trong điều kiện rất khó khăn cả về điều kiện trong nước và ngoài nước, không chỉ do nguồn tài nguyên hạn hẹp, trình độ kinh tế nói chung còn thấp kém, mà còn do ảnh hưởng của bối cảnh chính trị đặc biệt của hòn đảo này. Về đối ngoại, Đài Loan không được sự công nhận rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Thêm vào đó, Đài Loan luôn đứng trước khả năng phải đương đầu với cuộc chiến tranh giải phóng Đài Loan, thống nhất đất nước của chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Điều đó càng làm cho tình hình Đài Loan bất ổn định, lòng dân không yên, công nghiệp hoá gặp thêm nhiều trở ngại. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đài Loan có thể chia làm 3 giai đoạn [36]: a) Giai đoạn thứ nhất (1953-1964) Giai đoạn này tương ứng với 3 kế hoạch 4 năm phát triển kinh tế của Đài Loan: 1953 - 1956, 1957-1960 và 1961-1964, thực hiện chiến lược hướng nội. Mục tiêu chiến lược của Đài Loan giai đoạn này là phát triển công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân như ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, giải trí… Do vậy, CNH ở giai đoạn 1953-1964, thay thế nhập khẩu được coi là nhiệm vụ trọng tâm. Trong giai đoạn này, Đài Loan một mặt chủ trương phát triển các ngành sản xuất trong nước nhằm thay thế những sản phẩm nhập khẩu trước đây; mặt khác, đưa ra một loạt các biện pháp nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tự sản xuất được. Chính quyền Đài Loan còn áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ công nghiệp nội địa như miễn giảm thuế kinh doanh, cho vay với lãi suất thấp và các khoản trợ cấp khác. Nhà nước đã có một loạt các biện pháp khẩn cấp để trấn an lòng dân, ổn định kinh tế, tạo điều kiện để bước vào công nghiệp hoá. Các biện pháp chủ yếu bao gồm: Thứ nhất: chú trọng phát triển nông nghiệp. Ý thức được lợi thế vốn có của mình là nông nghiệp, Đài Loan đã tập trung cho lĩnh vực này. Biện pháp cốt lõi để phát triển nông nghiệp giai đoạn 1950-1952 là cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất 1950-1952 không chỉ đem lại ruộng đất cho người nông dân mà quan trọng hơn, nó kích thích sản xuất trong nông nghiệp, tạo nguồn nguyên liệu ổn định và có tích luỹ ban đầu đầu tư cho công nghiệp hoá. Thứ hai: ổn định tài chính, kinh tế. Trong điều kiện lạm phát phi mã, không một nhà đầu tư nào dám bỏ vốn vào dự án công nghiệp. Do vậy, Đài Loan rất chú trọng ổn định tài chính. Để triển khai có hiệu quả biện pháp này, chính phủ Đài Loan đã thành lập "Uỷ ban quản lý sản xuất khu vực", thông qua cải cách tiền tệ để ngăn chặn lạm phát, tăng cường quản lý ngoại tệ, khôi phục các cơ sở công nghiệp… Thứ ba: tận dụng lợi thế địa lý - chính trị của mình trong quan hệ với Mỹ. Đài Loan rất chú trọng tranh thủ sự viện trợ và giúp đỡ của Mỹ và các nước phương Tây. Tính đến giữa năm 1951, riêng Mỹ đã cung cấp cho Đài Loan 42 triệu USD viện trợ kinh tế. Số tiền viện trợ này đã hỗ trợ rất nhiều cho chương trình cải cách ruộng đất và ổn định tài chính ở Đài Loan giai đoạn 1950-1952 [40]. Nhờ áp dụng các biện pháp tích cực nêu trên và huy động mọi nỗ lực của toàn xã hội, đến cuối năm 1952, nền kinh tế Đài Loan đã được khôi phục, đạt mức cao nhất trước chiến tranh. Những kết quả nói trên tạo thuận lợi để Đài Loan bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu với các biện pháp tích cực đã đem lại cho Đài Loan một số kết quả nhất định: giá trị sản lượng công nghiệp từ 1953 đến 1962 tăng trung bình 11,7%/năm. Công nghiệp được mở rộng đã thu hút thêm một lượng lớn lao động, từ 17% trong toàn bộ lao động đang làm việc năm 1951 tăng đến 25% năm 1964 [59]. Bước ngoặt đánh dấu sự phát triển công nghiệp của Đài Loan là giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 1956 đã bắt đầu vượt giá trị sản xuất nông nghiệp trong GDP. Về mặt kinh tế - xã hội, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu cũng có tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp và đời sống nông thôn. Ngoài việc cung cấp các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, các ngành công nghiệp còn thu hút một lượng không nhỏ lao động dư thừa ở nông thôn, giải quyết một phần tình trạng thất nghiệp, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu kể từ đầu thập kỷ 60 cũng đã bộc lộ các mặt hạn chế của nó, sản phẩm công nghiệp của Đài Loan không có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, còn lại thị trường trong nước, sức mua của người dân rất hạn chế do thu nhập còn thấp. Trong khi đó, việc nhập khẩu các nguyên liệu, thiết bị cần thiết cho CNH vẫn tiếp tục tăng lên khiến thâm hụt mậu dịch, thâm hụt ngoại tệ vẫn tiếp tục tăng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp bắt đầu giảm dần từ cuối thập kỷ 50, từ 20% năm 1955 xuống còn 8,9% năm 1961. Riêng tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến - một thế mạnh của Đài Loan thập kỷ 50 cũng giảm từ 14,4% năm 1960 xuống còn 8,1% năm1962. Để thoát khỏi tình thế bất lợi này và tìm kiếm con đường phát triển cho Đài Loan, chính phủ và các nhà kinh tế, giới kinh doanh của hòn đảo này đã chuyển chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. b) Giai đoạn thứ 2 (1963-1970) Triển khai chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Đài Loan đã thực hiện một bước thay đổi căn bản về chiến lược phát triển, về quy chế và quản lý kinh tế, thông qua một loạt cải cách quan trọng. Thứ nhất, áp dụng chế độ một tỷ giá hối đoái. Thứ hai, chính phủ Đài Loan áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu. Thứ ba, ngoài các nỗ lực huy động nguồn lực bên trong, Đài Loan ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút vốn và công nghệ từ bên ngoài. Phương châm đề ra trong giai đoạn này là: "xuất khẩu để nhập khẩu", "nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu". Do đó, công nghiệp nheu và công nghiệp nặng Đài Loan đã có bước phát triển mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 18,5%. Điều quan trọng hơn là tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng lên đáng kể, đạt 41,3%, nông nghiệp đã giảm tương đối, chỉ còn 15,5%. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Đài Loan. GDP của Đài Loan giai đoạn này luôn tăng trung bình là 10,1%/năm. c) Giai đoạn thứ 3 (1974 đến nay) Giai đoạn này Đài Loan tiếp tục công nghiệp hoá, hiện đại hoá song có một bước đầu chỉnh quan trọng về cơ cấu ngành nghề, trong đó ưu tiên hàng đầu là tập trung phát triển các ngành công nghiệp cơ bản có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao, tuy nhiên vẫn duy trì chính sách phát triển các ngành công nghiệp nhẹ hướng ra xuất khẩu. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đài Loan giai đoạn này tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: - Nâng cấp, cải tiến các trang thiết bị ở các ngành công nghiệp nhẹ nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, giảm nguyên liệu, hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Tăng cường đầu tư ra nước ngoài, đồng thời chuyển giao công nghệ, dùng nhiều lao động sang một số nước đang phát triển khác ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương. - Tập trung nghiên cứu, triển khai và nhập khẩu những dây chuyền công nghệ mới, đầu tư cho những ngành công nghiệp mới có triển vọng sáng sủa hơn, trong đó có các ngành tiêu biểu cho cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại như vi điện tử, máy tính, bán dẫn… - Đẩy mạnh xây dựng các công trình công cộng và xí nghiệp công nghiệp có quy mô lớn. Nhờ sự chuyển hướng kịp thời, trong các kế hoạch 4 năm ở giai đoạn này: kế hoạch 4 năm lần thứ 6 (1973-1976), lần thứ 7 (1977-1980), lần thứ 8 (1981-1984), kế hoạch 6 năm (1985-1990) và kế hoạch 6 năm (1991-1996) kinh tế Đài Loan không những giữ được tốc độ tăng trưởng cao, công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại hoá với các sản phẩm có hàm lượng khoa học cao. Trong vòng 17 năm (1973-1990), sản xuất công nghiệp của Đài Loan vẫn tăng trung bình là 8,5%/năm, trong đó công nghiệp chế biến tăng gần 9%. Tỷ trọng hàng xuất khẩu có hàm lượng khoa học cao ngày càng tăng. Nếu năm 1976 loại hàng hoá này mới chỉ chiếm gần 11% tổng kim ngạch xuất khẩu thì có bước thay đổi căn bản. Trong giai đoạn 1991-1996, tăng trưởng công nghiệp Đài Loan đạt 9,9%/năm [85], công nghệ thông tin với những sản phẩm xuất khẩu năm 1994 xếp thứ 4 sau Mỹ, Nhật, Đức; công nghiệp đóng tàu vận tải đứng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKTCT-64.docx