Cấu trúc Đông Nam Á gồm nhiều vi mảng (microplates) nằm kẹp giữa 3 mảng lớn: các mảng Âu - Á, Ấn - Úc và Thái Bình Dương. Theo kết quả đo độ dịch chuyển cổ từ, hệ thống định vị toàn cầu (GPS) và cường độ động đất thì cường độ hoạt động của các mảng này còn khá mạnh với tốc độ
dịch chuyển lớn được ghi nhận từ Đệ Tam đến nay.
Đặc điểm kiến tạo Đông Nam Á trong giai đoạn Đệ Tam là kết quả chuyển động của các mảng lớn:
• Mảng động Ấn Độ dịch chuyển lên phía Bắc va chạm vào mảng Âu - Á,
• Mảng châu Úc dịch chuyển hút chìm dưới cung đảo Sumatra,
• Mảng Thái Bình Dương chuyển nhanh theo hướng tây - tây bắc hút chìm dưới cung đảo Philippin ở rìa Đông mảng Âu - Á,
• Sự tách giãn và hình thành Biển Đông.
40 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kiến tạo Việt Nam trong khung cấu trúc Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương
Kiến tạo
Việt Nam
trong
khung cấu trúc
Đông Nam Á
4
65
Chương 4. Kiến tạo Việt Nam trong khung cấu trúc Đông Nam Á
Hầu như tất cả các bể trầm tích Đệ tam
chứa dầu khí ở Đông Nam Á được hình
thành gắn liền với hoạt động kiến tạo mảng
giai đoạn Đệ Tam (Hình 4.1).
Trên 70 bể chứa dầu khí ở Đông Nam Á
đều nằm trên rìa nội mảng, ở phía Tây kéo
dài từ Bắc Thái Lan xuống vịnh Malay đến
biển Tây Natuna, ở phía Đông là toàn thềm
lục địa Việt Nam, chúng phân bố liền kề
hoặc ở nơi giao nhau của các đới khâu hay
đứt gãy lớn xuyên cắt vùng rìa Nam của
mảng Âu - Á vào Đệ Tam, như Sagaing,
Three Pagodas, Mae Ping - Hậu Giang,
Petchabun, Ranong, Khlong Marui, Sông
Hồng, Sông Mã, Rào Nậy, Đà Nẵng, kinh
tuyến 109o KĐ...
Vì thế việc tái lập kiến tạo mảng của
Đông Nam Á là cần thiết nhằm nghiên cứu
vai trò chuyển động của các mảng trong sự
hình thành các bể và đặc điểm phân bố dầu
khí.
Cấu trúc Đông Nam Á gồm nhiều vi
mảng (microplates) nằm kẹp giữa 3 mảng
lớn: các mảng Âu - Á, Ấn - Úc và Thái Bình
Dương. Theo kết quả đo độ dịch chuyển
cổ từ, hệ thống định vị toàn cầu (GPS) và
cường độ động đất thì cường độ hoạt động
của các mảng này còn khá mạnh với tốc độ
dịch chuyển lớn được ghi nhận từ Đệ Tam
đến nay.
Đặc điểm kiến tạo Đông Nam Á trong
giai đoạn Đệ Tam là kết quả chuyển động
của các mảng lớn:
• Mảng động Ấn Độ dịch chuyển lên phía
Bắc va chạm vào mảng Âu - Á,
• Mảng châu Úc dịch chuyển hút chìm
dưới cung đảo Sumatra,
• Mảng Thái Bình Dương chuyển nhanh
theo hướng tây - tây bắc hút chìm dưới
cung đảo Philippin ở rìa Đông mảng Âu
- Á,
• Sự tách giãn và hình thành Biển Đông.
Trường động lực đã tạo sự xoay chuyển
các vi mảng (microplates), sự trượt bằng
dọc các đới khâu và các đứt gãy lớn theo
đó các bể Đệ Tam được hình thành, đồng
thời cũng tạo tính chu kỳ xen những gián
đoạn khu vực được ghi nhận ở tất cả các bể
Đệ Tam Đông Nam Á. Chu kỳ phát triển
kiến tạo - tướng đá và magma giai đoạn Đệ
Tam liên quan đến các chu kỳ va chạm và
hút chìm giữa các mảng lớn.
Nguồn gốc kiến tạo của các bể trầm tích
là vấn đề tranh luận, và có rất nhiều mô
hình. Một số nhà địa chất giả định nguyên
nhân hình thành các bể Đệ Tam ở ĐNÁ là
do căng giãn sau cung kết quả của sự hút
chìm và hội tụ xiên (oblique convergence)
1. Đặc điểm cấu trúc Đông Nam Á theo
mô hình kiến tạo mảng
66
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
dọc rãnh sụt (trench) Sumatra - Java
(Kingston và nnk, 1983); do sự kéo toác
dọc các đứt gãy trượt bằng trái lớn (left-
lateral strike-slip faults) theo thuyết kiến
tạo thúc trồi (Tapponnier và nnk., 1982),
do tách rift sau cung (back arc rifting) kết
hợp với hoạt động gãy trượt dốc (wrench
faulting) (Hamilton,1979; Crostella,1981);
do tách rift liên quan đến sự dâng trồi của
manti (mantle plume) (Hutchinson,1989;
Khalid Ngah và nnk., 1996); do căng giãn
kết quả của sự xoay trường ứng lực (rotating
of stress field) trong quá trình va mảng giữa
Ấn Độ và Âu - Á (Harder và nnk., 1992;
Hình 4.1. Sơ đồ phân bố các bể chứa dầu chính ở Đông Nam Á
67
Chương 4. Kiến tạo Việt Nam trong khung cấu trúc Đông Nam Á
Huchon và nnk., 1994); do cắt trượt phải
(dextral shear) dọc các đứt gãy trượt hướng
tây-bắc tồn tại trước đó (Polochan và nnk.,
1989); hoặc do kéo toác liên quan đến sự
uốn cong của quần đảo Andaman - Sumatra
- Java (Hutchinson,1992).
Dù có nguồn gốc khác nhau, nhưng
các bể này được thành tạo liên quan đến
chuyển động trượt bằng (strike-slip), căng
giãn (extension) bên trong mảng và có
dạng graben hoặc nửa graben với các chu
kỳ trầm tích và những bất chỉnh hợp đồng
tuổi với nhau được quan sát thấy trong tất
cả các bể.
Môi trường trầm tích và quy luật phân
bố dầu khí trong các bể Đệ Tam được khống
chế bởi hai yếu tố: - chuyển động kiến tạo
của các vi mảng nội lục (intracontinental
microplates) và sự dao động có tính chu kỳ
của mực nước đại dương.
Sự dao động mực nước đại dương, đặc
biệt trong Oligocen - Miocen, đóng vai trò
quan trọng trong sự phân bố tướng trầm tích
và đặc tính dầu khí.
Mặc dù tất cả các tác giả đều thừa nhận
cấu trúc Đông Nam Á được hình thành do sự
va chạm của các mảng lớn, nhưng mô hình
động lực lại được giải thích khác nhau.
2. Những quan điểm khác nhau về mô
hình động lực di chuyển các mảng
2.1. Quan điểm thúc trồi (extrusion) theo
Tapponnier và nnk., 1982, 1986
Với mô hình kiến tạo này vào Eocen sự
va chạm của mảng động Ấn Độ (indentor)
và chuồi sâu (deep penetration) vào mảng
châu Á đã làm cho những khối lớn vỏ lục
địa bị trồi lên, xoay phải và trượt về hướng
Đông (như khối Hoa Nam, khối Đông
Dương hay Sundaland), dọc theo các đới cắt
trượt chính như: Sông Hồng, Tây Malaysia,
Vịnh Thái Lan v.v... tạo tách giãn đáy biển
Andaman, Biển Đông và sự căng giãn ở
Vịnh Thái Lan (Hình 4.2).
Huchon và nnk. (1994) đã chỉnh sửa và
đưa ra thuyết rút ngắn vỏ Trái Đất (crust
shortening, Hình 4.3) ở vùng Bắc góc hội tụ
Tây Tạng theo đó sự căng giãn (extension)
phát triển về phía Đông và Nam của mảng
động Ấn Độ. Với sự dịch chuyển đới hội
tụ về phía Bắc, một mảng vỏ nằm kề phía
Đông có xu thế bị thúc trồi trước tiên về
phía Đông hoặc Đông - Bắc, sau đó về phía
Nam làm mảng này xoay phải. Phần vỏ nằm
ở xa hơn về phía Đông sẽ có trường ứng lực
tối đa hướng đông - tây, sau đó chuyển sang
bắc - nam khi đới hội tụ tiếp tục di chuyển
lên phía Bắc. Dựa theo đó, Huchon đã lập
mô hình các trường ứng lực theo 4 thời kỳ
(Hình 4.4) từ giữa Eocen (50 triệu năm) đến
giữa Miocen (16 triệu năm). Một số lớn các
khối nội mảng (intraplates) bên trong địa
khối Đông Dương (Indochina) cũng thay đổi
hướng chuyển động theo sự chuyển hướng
của trường ứng lực. Huchon cũng thừa nhận
xu thế trượt bằng phải (right lateral) trong
mô hình thúc trồi của Tapponnier làm xoay
khối Đông Dương và giãn đáy Biển Đông.
Sự thúc trồi xảy ra không đồng nhất, có xu
thế phân dị theo thời gian. Vào giữa Eocen
bắt đầu sự va chạm, vào Oligocen (32 triệu
năm) giãn đáy Biển Đông, vào Miocen
sớm (23 triệu năm) có sự đổi hướng giãn
đáy của Biển Đông, vào Miocen giữa kết
thúc sự giãn đáy Biển Đông, không đề cập
đến vai trò chuyển động của các vi mảng
trong cấu trúc mảng Thái Bình Dương. Sự
68
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
500 km
S I
B E R I
B
A
I
K
A
L
A L T A I
3
2
2
S
H
A
N
S
I
2
?
1
1-2
M A L A Y S I A B O R N E O
1
1
1
?
?
2K ALTY
N T
AG
H
F.
H
I
M
A L A AY
3
Y
100
0
6000
10
00 6000
60
00
10
00
60
00
70 90 110 130 150 60 50 400 0 0 0 0 E N0 0 0
1500
300
20
1400
0
100
1300
00
10
120
0
0
11001000900800700
00
100
200
0
400
500
0
MÔNG CỔ
THIÊN SƠN
TRUNG QUỐC
VÂN NAM
SÔNG HỒNG
ẤN ĐỘ
Căng giãn vào Kainozoi
Vỏ đại dương Biển Đông
và biển Andaman
Đất liền
ĐÔNG DƯƠNG
Hình 4.2. Sơ đồ cấu tạo thúc trồi và các đứt gãy lớn ở Đông Châu Á
69
Chương 4. Kiến tạo Việt Nam trong khung cấu trúc Đông Nam Á
40 N0
30 N0
20 N0
10 N0
90 E0 100 E0 110 E0 120 E
0
Nam Trung Hoa
Ấn Độ
BORNEO
TPF
MBT
MPF
RRF
B
R
S
TPF: Đứt gãy Three Pagodas SF: Đứt gãy Sagaing
MPF: Đứt gãy Mae-Ping
RRF: Đứt gãy Sông Hồng
BRS: Đới khâu Bentong - Raub
MBT: Đới nghịch chờm chính ở rìa mảng
S
F
90 E0 100 E0 110 E0 120 E
0
40 N0
30 N0
20 N0
10 N0
Biển Đông
B
R
S
Hình 4.3. Sự rút ngắn vỏ trái đất
70
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
30 N0
10 N0
110 E090 E0110 E
090 E0
IN
Giãn đáy
RRF
IN
MPF
RRF
IN
IN
RRF
RRF
TPF
B
R
S
EOCEN GIỮA(50 Ma)
Khởi đầu va chạm
OLIGOCEN (32 Ma)
Khởi đầu giãn đáy Biển Đông
MIOCEN SỚM (23 Ma)
Đổi hướng giãn đáy Biển Đông
(South China Sea)
MIOCEN GIỮA (16 Ma)
Kết thúc giãn đáy Biển Đông
(South China Sea)
30 N0 30 N0
30 N0
10 N0 10 N0
10 N0
110 E0 110 E090 E
0
90 E0
RRF - đứt gãy Sông Hồng TPF - đứt gãy Three Pagodas
IN - mảng Ấn Độ
Ghi Chú
Hình 4.4. Bản đồ trường ứng lực (theo R. D. Shaw, 1997; Huchon, 1994)
71
Chương 4. Kiến tạo Việt Nam trong khung cấu trúc Đông Nam Á
trượt bằng dọc các đứt gãy lớn như Sagaing
(SF), Three Pagodas (TPF) và đứt gãy
Sông Hồng (RRF) đã tạo sự giãn đáy biển
Andaman, hình thành các bể rift Vịnh Thái
Lan và Sông Hồng. Quan điểm này đã bổ
sung cho cách giải thích sự tạo rift đơn
thuần do chuyển động sụt lún dọc đứt gãy
(downfaulting) của Polachan (1988, 1991)
vào Oligocen để hình thành bể như bể Vịnh
Thái Lan v. v...
Shaw R.D. (1997) dựa vào các quan
điểm trên cũng cho rằng sự dịch chuyển
theo các đứt gãy không chỉ trượt bằng phải
mà đổi hướng theo thời gian - ban đầu vào
Eocen (?) hoặc Oligocen chuyển động dọc
các đứt gãy Mae Ping và Three Pagodas
chủ yếu là trượt bằng trái (sinistral), sau
đó (sau thời gian 23 triệu năm) xảy ra sự
đảo hướng sang trượt bằng phải (dextral),
gây hiện tượng nghịch đảo kiến tạo vào
cuối Oligocen quan sát thấy ở bể Tây
Natuna hoặc bể Sông Hồng ở phía Bắc vi
mảng Đông Dương. Xen giữa hai thời kỳ
này là thời kỳ yên tĩnh kiến tạo (structural
quiescene), với sự sụt rift là chủ yếu, kéo
dài 10 - 15 triệu năm tạo phức hệ trầm tích
dày chứa dầu tuổi Oligocen. Sự đổi hướng
và cường độ chuyển động được giải thích
do sự chuyển dịch vị trí của rìa đới hội tụ
(convergence margins) khi mảng động Ấn
Độ thúc lên phía Bắc tạo hướng tương tác
(interaction) khác nhau đối với các đứt gãy
chính, như Three Pagodas và Sông Hồng.
2.2. Quan điểm về mô hình động của
nhiều vi mảng (kinematic modelling
of numerous microplates)
Rangin và nnk., 1990; Daly và nnk.,
1991; Ian M. Longley, 1997; Hall R. 1997:
Các tác giả này cho rằng: Đông Nam Á
gồm một phức hợp các vi mảng đại dương
và lục địa (địa khối) kẹp giữa các mảng lớn
lục địa tương đối ổn định Âu - Á ở Tây -
Bắc, mảng Ấn - Úc ở phía Nam nhưng di
chuyển rất nhanh lên phía Bắc, các mảng
Philippine và Thái Bình Dương bị hút chìm
ở rìa Đông mảng Âu - Á. Các chuyển động
này đã tạo sự hút chìm giữa mảng và hình
thành hệ cung đảo - rãnh sụt (arc/trench) ở
sườn Tây - Nam và Đông - Bắc của Đông
Nam Á (các cung đảo Sunda và Philippine).
Mô hình này chưa giải thích sự chuyển động
còn phức tạp hơn nhiều khi mảng châu Úc
va chạm với mảng Philippin tạo ranh giới
trượt bằng trái làm cho các khối vi lục địa
bị cắt tách khỏi rìa Bắc châu Úc để chuyển
dịch về phía Tây.
Sự hình thành các bể nội mảng được
giải thích do tác động va chạm trực tiếp
ở rìa các mảng và hiệu ứng này đã được
truyền rất sâu vào trong mảng. Ngoài ra,
đặc tính căng hoặc nén của hệ cung đảo
còn phụ thuộc vào sự thay đổi tốc độ hút
chìm (mức độ hội tụ - convergence rate,
rollback velocity) và hướng di chuyển của
địa khối phủ chờm bên trên.
Ian Longley (1997) trên cơ sở thừa nhận
kiến tạo Đông Nam Á liên quan đến sự va
chạm các mảng Âu - Á và Ấn - Úc, đã chia
ra 5 thời kỳ:
• Trước Đệ Tam (trước 50 triệu năm) -
lịch sử trước Đệ Tam liên quan đến sự
vỡ mảnh của siêu lục địa Gondwana làm
một số mảnh bắt đầu tách khỏi châu Úc
từ Jura, Ấn Độ tách khỏi châu Úc vào
Creta sớm và Nam Băng Dương tách
ra vào Creta muộn. Các vi mảng Đông
Dương, proto - Biển Đông, Tây Sunda
72
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
luôn là một bộ phận của lục địa Âu -
Á bền vững. Khối Kalimantan sau khi
tách khỏi Đông Dương và Meritus tách
khỏi châu Úc đã gắn kết (almaganation)
với nhau thành khối Borneo có thể vào
90 triệu năm trước đây. Sự gắn kết
các vi mảng trên để hình thành khung
cấu trúc Đông Nam Á thống nhất kết
thúc vào khoảng 85 triệu năm với hoạt
động magma - phun trào và tạo núi Yến
Sơn.
• Thời kỳ (50 - 43, 5 triệu năm) - xảy ra
sự va chạm của hai mảng Âu - Á và Ấn
- Ú song song với sự hút chìm mảng đại
dương dưới lục địa Âu - Á, nhưng tốc
độ hội tụ hay hút chìm dọc cung Sunda
chậm hơn so với tốc độ di chuyển của
mảng lục địa tạo sự căng giãn ở rìa lục
địa để hình thành các bể trước và sau
cung đảo được lấp đầy bởi trầm tích
sông - biển cho đến giữa Miocen.
• Thời kỳ (43,5 - 32 triệu năm) - chấm
dứt va chạm giữa ấn Độ và Âu - Á,
các mảng đại dương phía Nam sắp xếp
lại, mảng Ấn Độ Dương tiếp tục bị hút
chìm dưới khối lục địa Sunda với tốc
độ chậm, hình thành pha 2 trong lịch sử
phát triển các bể sau cung đảo. Sự sắp
xếp lại mảng Thái Bình Dương đi kèm
tách giãn Biển Đông, sự tách giãn eo
biển Makassar tạo các bể ở Đông và
Tây - Bắc Borneo.
• Thời kỳ (32 - 21 triệu năm) - tương ứng
với pha đầu của giãn đáy Biển Đông làm
xoay phải toàn địa khối Sunda quanh
cực xoay nằm ở đầu vịnh Thái Lan. Sự
xoay khối mở rộng bể Malay tạo một
pha gia tăng tốc độ hội tụ, nghịch đảo
kiến tạo dọc cung Sunda chấm dứt sụt
rift ở các bể trước và sau cung đảo.
• Thời kỳ (21 - 0 triệu năm) - chấm dứt
giãn đáy Biển Đông, co ngắn vỏ ở Tây
Tạng (Tibet), xoay khối, trồi và trượt
bằng dọc các đứt gãy, gây nghịch đảo
kiến tạo trong tất cả các bể Đệ Tam ở
Đông Nam Á.
Hall R. (1995, 2002) dựa trên số liệu đo
cổ địa từ ở Đông Indonesia và phỏng theo
chương trình ATLAS, đã xác định vị trí các
cực xoay (rotation poles) của vi mảng biển
Philippin (Philippine Sea microplate) và các
vi mảng khác bên trong lục địa Âu - Á từ 50
triệu năm trở lại. Theo Hall, trong thời gian
này vi mảng biển Philippin đã xoay phải
liên tục và trượt về Tây - Bắc, tạo hai biến
cố khu vực quan trọng do sự va chạm dạng
cung đảo - lục địa (arc - continent collision)
làm biến đổi hình dạng và ranh giới các địa
khối (geoblock) ở rìa Đông - Nam lục địa Âu
- Á - đó là sự va chạm giữa lục địa châu Úc
với cung vi mảng biển Philippin (Philippine
Sea microplate arc) ở 25 triệu năm và sự va
chạm giữa cung đảo Philippin với rìa Đông
lục địa Âu - Á vào 5 triệu năm, tương ứng
với hai thời kỳ chuyển động kiến tạo quan
trọng ở Đông Nam Á vào cuối Oligocen và
cuối Miocen muộn. Hall cũng cho rằng vào
cuối Oligocen sự trượt bằng dọc theo hai
đứt gãy lớn Sông Hồng và Three Pagodas
làm khối Borneo xoay trái, hình thành bể
Vịnh Thái Lan - Malay, khép lại mảng
đại dương proto - Biển Đông (proto South
China Sea), bắt đầu tách giãn ở phía Bắc
quần đảo Macclesfield để hình thành Biển
Đông như ngày nay.
Warren Carey đưa ra giả thuyết về sự
giãn nở của Trái Đất (Expanding Earth
hypothesis), Ông cho rằng trước khi xảy ra
73
Chương 4. Kiến tạo Việt Nam trong khung cấu trúc Đông Nam Á
sự phá đứt các đới trượt ven - Thái Bình
Dương và Tethys (Disruption of Peripacific
and Tethian shear), khối lục địa (craton)
Đông Nam Á gồm những mảnh vỡ hình thoi
và nêm (rhombochasm and sphenochasm)
ngăn bởi các đứt gãy trượt bằng, sau đó bị
giãn nở (expansion) không có hiện tượng
hút chìm ven biển Tethys và Thái Bình
Dương.
2.3. Quan điểm của một số nhà địa chất
Việt Nam
Kiến tạo khu vực Đông Nam Á và Việt
Nam được thể hiện trong nhiều công trình
nghiên cứu của N. X. Bao, L. D. Bách,
N. Đ. Cát, V. Đ. Chương, L. N. Lai, P. H.
Long, P. V. Quýnh, N. T. San, P. T. Thị,
N. G. Thắng, T.V. Trị, C. Đ. Triều, N. X.
Tùng... đặc biệt liên quan với đới đứt gãy
Sông Hồng có nhiều công trình nghiên cứu
của T. T. Thắng, T. Nghi, N. T. Yêm, L.
V. Mạnh, N. T. Kim Thoa và nhiều tác giả
khác…
T. V. Trị (1995) phân chia miền lãnh thổ
Đông Dương thành nhiều địa khu (terrane)
tách ra từ Gondwana có cấu trúc vỏ Trái
Đất khác nhau:
• Các khối vỏ lục địa tiền Cambri (Đông
Dương, Shan Thái, Hoàng Liên Sơn,
Hoàng Sa),
• Địa khu liên hợp (composite terrane)
Việt - Trung cố kết vào Paleozoi sớm
- giữa, Việt - Lào cố kết vào Paoleozoi
giữa - muộn và được gắn kết với nhau
qua đới khâu Sông Mã,
• Địa khu liên hợp Đông Dương được cố
kết vào thời kỳ tạo núi Indosini liên
quan đến sự khép kín của Paleotethys
giáp nối với địa khu liên hợp Shan-
Thái
• Các cấu tạo nội mảng chồng gối Meso
- Kainozoi dưới dạng các rift, võng
(depression), graben, các núi lửa - xâm
nhập nông (volcano-plutonic) kiểu rìa
lục địa tích cực.
• Biển rìa Đông Việt Nam gồm cả thềm,
sườn lục địa và vỏ đại dương (32-16
triệu năm).
C. Đ. Triều đã phân chia các cấu trúc
dạng tuyến lớn (lineament) lớn là ranh giới
các nội mảng, chúng có nguồn gốc sâu dưới
vỏ, hiện vẫn còn hoạt động, gắn với các đai
động đất mạnh hiện nay. Có tất cả 13 đới
được phân chia có cường độ (magnitude)
M>6. 0.
Đới đứt gãy sâu Sông Hồng (RRFZ)
được các nhà địa chất Việt Nam nghiên
cứu nhiều và đều khẳng định quan điểm
của Tapponnier (1986), Rangin C. và nnk.
(1995) về sự thúc trồi từ mảng Ấn Độ dẫn
đến chuyển động trượt bằng trái trong Đệ
Tam, ít ra đến cuối Miocen muộn (5 triệu
năm) tạo ra bể căng giãn (extensional basin)
Sông Hồng. P. V. Quýnh và một số nhà
nghiên cứu khác cho sự trượt bằng dọc các
đứt gãy sâu không chỉ tạo sự căng giãn mà
còn có tác động của nén ép (compression)
để tạo các bể kéo toác (pull - apart) hơn là
căng giãn đơn thuần.
T. T. Thắng và đồng tác giả đã phát triển
quan điểm thúc trồi của Tapponnier nhưng
có kết hợp với khái niệm về sự chuyển
dịch vị trí theo thời gian làm cho khối Đông
Dương có xu hướng xoay phải và bể Sông
Hồng được hình thành dạng căng ngang
(transtensional).
Dựa trên số liệu trọng lực vệ tinh N. N.
Trung, N. T. T. Hương đã xây dựng bản đồ
74
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
I. Miền cấu trúc vỏ lục địa Việt - Trung
II. Miền cấu trúc vỏ lục địa Đông Dương
III. Miền cấu trúc vỏ lục địa Sibumasu
IV. Miền cấu trúc vỏ đại dương Biển Đông
V. Miền cấu trúc vỏ lục địa sót bị đại dương hóa Hoàng Sa - Macclesfield
VI. Miền cấu trúc lục địa sót bị đại dương hóa Trường Sa - Reed bank
Hình 4.5. Sơ đồ phân miền cấu trúc sâu vỏ trái đất, vị trí núi lửa, các đứt gãy chính
(theo N. N. Trung, N. T. T. Hương, 2003, dựa trên kết quả phân tích tài liệu vệ tinh)
75
Chương 4. Kiến tạo Việt Nam trong khung cấu trúc Đông Nam Á
độ sâu bề mặt Moho và chiều dày vỏ (trừ
các trầm tích phủ bên trên) cho Biển Đông
và ven rìa (Hình 4.5). Các tác giả đã chia
các khu vực:
• Rìa lục địa Việt Nam có chiều dày vỏ
dao động từ 31km đến 10km ở trung
tâm bể Sông Hồng;
• Rìa Bắc Biển Đông với chiều dày vỏ
31km - 16km;
• Khu vực bể Trung tâm có chiều dày vỏ
mỏng 6 - 10km,
• Rìa Nam Biển Đông (quần đảo Trường
Sa) có chiều dày biến động 10 - 23km;
đồng thời cũng phân các đứt gãy sâu
quan trọng phân chia các khối có chiều
dày vỏ khác nhau.
L. D. Bách và N. G. Thắng (1998) đã đưa
ra mô hình tiến hoá kiến tạo Biển Đông.
Quá trình hội tụ của các mảng thạch quyển
vào Mesozoi đã làm sản sinh một đai nén ép
lớn dọc Tây Thái Bình Dương và Nam Âu -
Á, xuất hiện hàng loạt các đới hút chìm làm
tiêu biến kiến trúc đại dương thuộc tổ phần
của Tethys và Tây Thái Bình Dương, cũng
trong bối cảnh địa động lực này đã xuất hiện
kiến sinh huỷ hoại kiến trúc lục địa có trước
làm đứt đoạn và phân rã các khối lục địa,
thoạt đầu Borneo (Kalimantan), tiếp đến là
Trường Sa, Luconia, Reed Bank, Palawan
- Mindoro, Hoàng Sa, Macclesfield, được
ngăn cách bởi các địa hào (hệ thống rift
phân tán) tiến hoá dần thành các đới giãn
đáy có kiến trúc vỏ đại dương với hình thái
Biển Đông ngày nay.
3. Phân đới kiến tạo Việt Nam và thềm
lục địa
3.1. Bình đồ cấu tạo hiện nay
Theo Metcalfe (1988, 1991, 1996) kết
quả nghiên cứu về địa tầng, cổ sinh và cổ
từ cho thấy khối lục địa (continental mass)
Đông Nam Á là tập hợp (assemblage) của
nhiều địa khu kiến tạo - địa tầng (tectono
- stratigraphic terranes) cố kết lại từ các
mảnh của đại lục cổ Pangea bị giập vỡ
(broken-up) sau nhiều lần mở và khép lại
các đại dương Tethys (Paleo, Meso, Neo)
đi kèm va mảng - tạo núi. Sengor (1984)
còn gọi là sự kết dán kiến tạo (tectonic
collage). Những đơn vị kiến tạo này vào
Paleozoi sớm vẩn còn là bộ phận cấu thành
rìa siêu lục Gondwana (integral boundary
part of the supercontinent Gondwanaland),
chỉ tách ra và kết nối với lục địa Âu - Á
trong Paleozoi giữa-muộn và đặc biệt trong
Mesozoi, kết quả của chuyển động va mảng
- tạo núi Indosini.
Rìa tăng trưởng Đông Nam của lục địa
Âu - Á sau Trias muộn còn được Hutchinson
(1984, 1989) đặt tên “Sundaland”, và cũng
để chỉ miền có vỏ lục địa bền vững (region
with stable continental core) rộng lớn hiện
nay ở Đông Nam châu Á gồm Đông Miến
Điện, Thái Lan, Đông Dương, Malaysia.
thềm Sunda (Sunda shelf), quần đảo
Sumatra, phần Đông Java, Tây Borneo,
thềm lục địa Việt Nam, Nam và Đông Nam
Trung Quốc.
Bình đồ cấu tạo hiện nay của Việt Nam
và các vùng kế cận được thể hiện trên bản
đồ (Hình 4.6).
76
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
3.2. Phân chia các miền cấu trúc
Lãnh thổ Việt Nam và kế cận là miền
cấu trúc liên hợp (composite structural
domain) phức tạp có kiểu vỏ lục địa, mặc dù
đã được cố kết và trở thành một craton hợp
nhất với lục địa Âu - Á vào cuối Mesozoi
(Jura muộn - Creta?) nhưng do hoạt động
hút chìm của mảng Ấn Độ Dương ở rìa Nam
cung đảo Sumatra - Java và đặc biệt do sự
giãn đáy và đại dương hoá Biển Đông, nên
vỏ lục địa rìa Đông mảng Âu - Á bị biến
đổi mạnh vào Kainozoi - đó là nguyên nhân
tạo sự khác biệt trong cơ chế và lịch sử hình
thành các bể Đệ Tam chứa dầu khí ở Việt
Nam và kế cận.
Có thể chia các miền cấu trúc với các
dạng vỏ Trái Đất như sau (Hình 4.6):
• Cấu trúc vỏ lục địa
- Miền cấu trúc vỏ lục địa Việt -
Trung,
- Miền cấu trúc vỏ lục địa Đông
Dương,
- Miền cấu trúc vỏ lục địa Sibumasu.
• Cấu trúc vỏ lục địa sót bị đại dương
hoá:
- Miền cấu trúc vỏ lục địa sót bị đại
dương hoá Hoàng Sa - Macclesfield
do giãn đáy Biển Đông,
?
Trũng
Bangka
105 E0 110 E0 115 E
0 120 E
0 122 E0
000
95 E0
100 E0
105 E0
00 N0
93 E0
24 N0
20 N0
15 N0
10 N0
093 E0
05 N0
100 E0
24 N0
122 E0120E0115 E0110 E
0105 E0095 E
0
05 N0
10 N0
15 N0
20 N0
Bể mezozoi
Phongsaly
Ut
la
ra
di
t s
tu
re
Đới khâu Song Ma
Đứt gãy Sông Hồng
Đ
ứt
ga
õu
Sh
an
Đư
ùt g
ãy
No
rth
ern
T
hai
khoảng dịch bằng
trái lớn đượcbù lại
dosựd
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_4_8411.pdf