Bài nghiên cứu nhằm kiểm định tính phù hợp của mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) tại thị
trường chứng khoán (TTCK) Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Hai phương pháp được vận dụng để
đánh giá tính phù hợp của mô hình là: (1) phương pháp kiểm định truyền thống theo Fama và MacBeth
(1973); và (2) phương pháp kiểm định có điều kiện của Pettengill & cộng sự (1995). Nghiên cứu sử
dụng dữ liệu chuỗi thời gian của tất cả các doanh nghiệp (DN) niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán
TP.HCM (HOSE), và có đầy đủ quan sát theo từng giai đoạn kiểm định trong tổng thời gian nghiên cứu
từ tháng 1/2007 đến tháng 6/2015. Kết quả kiểm định theo phương pháp truyền thống cho thấy mô hình
CAPM không giải thích tốt mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận tại TTCK TP.HCM. Tuy nhiên, khi đưa
thêm điều kiện thị trường (tốt/xấu) vào theo phương pháp kiểm định có điều kiện lại cho kết quả phù
hợp như dự báo của CAPM.
9 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 09/05/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Kiểm định mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) tại thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh – Từ phương pháp truyền thống đến phương pháp kiểm định có điều kiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
96 0.6544 0.1284
Mức ý nghĩa: ***1%, **5%, *10%
Nguồn: Tính toán của tác giả
Đối với phương pháp có điều kiện, kết quả
lại cho thấy mô hình CAPM vẫn phù hợp tại
TTCK TPHCM. Cụ thể trong điều kiện thị
trường tốt, tất cả các hệ số γ1>0 đều có ý nghĩa
thống kê trong cả 5 giai đoạn kiểm định, cho thấy
mối quan hệ dương giữa rủi ro (beta) và lợi
nhuận (RP) đúng như CAPM dự báo. Và ngược
lại trong điều kiện thị trường xấu, các hệ số γ2<0
có ý nghĩa thống kê trong 4/5 giai đoạn phân tích,
đặc biệt được ủng hộ trong giai đoạn 5 khi xét
toàn bộ thời gian nghiên cứu. Do đó, mặc dù giai
đoạn 1 không ủng hộ, nhưng xét tổng thể kiểm
định vẫn cho thấy sự ủng hộ CAPM trong điều
kiện thị trường xấu, tức có mối quan hệ âm giữa
rủi ro và lợi nhuận. Tuy nhiên, khi xét đến hệ số
γ0=0 thì được ủng hộ trong điều kiện thị trường
xấu ngoại trừ giai đoạn 3, trong điều kiện thị
trường tốt lại không được ủng hộ ở 3 giai đoạn 1,
3 và 4. Các hệ số R2 hiệu chỉnh cho 4 giai đoạn
trong điều kiện thị trường tốt/xấu là không cao và
có sự biến thiên mạnh, từ 14.09% đến cao nhất
chỉ có 44.2% ở thị trường tốt, và từ 10.33% đến
cao nhất 65.44% ở thị trường xấu. Khi xét tổng
thể ở giai đoạn 5 thì hệ số R2 hiệu chỉnh giảm,
còn 31.19% khi thị trường tốt và càng thấp hơn
khi thị trường xấu (12.84%).
(a) (b)
Hình 1: Trung bình RPp theo βp - (a) toàn thị trường, 1/2011-6/2015; (b) thị trường tốt/xấu, 1/2011-6/2015
Nguồn: Tính toán của tác giả
-0,01
-0,005
0
0,005
0,01
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
16 TDMĐT theo thứ tự beta tăng dần
RP
-0,06
-0,04
-0,02
0
0,02
0,04
0,06
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
RP thị trường tốt
RP thị trường xấu
RP
16 TDMĐT theo thứ tự beta tăng dần
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ Q4- 2015
Trang 151
Quan sát đồ thị của RPp theo βp tăng dần của
16 TDMĐT ở hình 1a và 1b cho thấy, không có
bất kỳ mối liên hệ nào giữa rủi ro – lợi nhuận
trong tổng thị trường, nhưng lại thấy khá rõ mối
tương quan dương khi thị trường tốt, và khi thị
trường xấu thì dù không rõ lắm nhưng vẫn cho
thấy có xu hướng tương quan âm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy CAPM bị bác
bỏ theo PP truyền thống, nhưng được ủng hộ theo
PP có điều kiện. Kết quả này tương đồng với
nghiên cứu của Ocampo (2003) tại Philippine,
Tang & Shum (2004) tại Singapore, Elsas và
cộng sự (2003) tại Đức, Gursoy và Rejepova
(2007) tại Thổ Nhĩ Kỳ. Bên cạnh đó, việc bác bỏ
γ0=0 trong 3 giai đoạn ở thị trường tốt và 1 giai
đoạn ở thị trường xấu, cùng với các hệ số R2 hiệu
chỉnh không cao, cho thấy khả năng còn nhiều
yếu tố khác sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng
của cổ phiếu tại TTCK TPHCM.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Nghiên cứu tiến hành phân tích sự phù hợp
của CAPM tại TTCK TPHCM theo hai phương
pháp: phương pháp truyền thống của Fama và
MacBeth (1973) và phương pháp có điều kiện
của Pettengill & cộng sự (1995). Dữ liệu nghiên
cứu gồm tất cả các mã cổ phiếu có đầy đủ quan
sát trên HOSE trong từng giai đoạn kiểm định
khác nhau, bắt đầu từ tháng 1/2007 đến 6/2015.
Kết quả cho thấy mô hình CAPM bị bác bỏ
theo phương pháp truyền thống, nhưng lại được
ủng hộ theo phương pháp kiểm định có điều kiện.
Qua đó tác giả kết luận tính hợp lý của CAPM và
khẳng định tồn tại mối quan hệ giữa rủi ro và lợi
nhuận tại TTCK TP.HCM theo từng điều kiện thị
trường khác nhau. Tuy nhiên mối quan hệ này là
không quá mạnh, cho thấy beta không phải là yếu
tố duy nhất tác động lên lợi nhuận.
4.2. Kiến nghị
Dựa vào kết quả nghiên cứu, một số kiến
nghị được đề xuất như sau. Các nhà đầu tư và
quản lý có thể dựa vào CAPM để tham khảo và
căn cứ vào hệ số beta để đầu tư và quản lý
TDMĐT tốt hơn. Trong điều kiện thị trường tốt
thì việc đầu tư vào các cổ phiếu có hệ số beta cao
sẽ đem lại kết quả sinh lời tốt, ngược lại trong
điều kiện thị trường xấu thì đầu tư vào các cổ
phiếu có beta thấp sẽ tốt hơn. Bên cạnh đó, vì
beta không phải là yếu tố duy nhất tác động đến
lợi nhuận, nên các nhà đầu tư cần chú ý đến các
yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận. Hạn
chế của nghiên cứu là chỉ xét trên TTCK
TPHCM, nên số cổ phiếu không nhiều, dẫn đến
số cổ phiếu phân bổ trong mỗi TDMĐT không
phản ánh tốt tính đại diện cho TDMĐT. Thêm
vào đó, nghiên cứu cũng không xét đến ảnh
hưởng của tính thời vụ lên kết quả nghiên cứu vì
dữ liệu quan sát quá ngắn. Do đó, các vấn đề này
có thể xem như một định hướng cho các nghiên
cứu tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Basu, D., & Chawla, D. (2010). An
empirical test of CAPM—the case of indian
stock market. Global Business Review,
11(2), 209-220.
[2]. Black, F., Jensen, M., Scholes, M. (1972).
The Capital Asset Pricing Model: Some
Empirical Tests. Studies in the Theory of
Capital Markets, Praeger: New York, 79-
124.
Science & Technology Development, Vol 18, No.Q4- 2015
Trang 152
[3]. Blume, M. E., & Friend, I. (1973). A new
look at the capital asset pricing model. The
Journal of Finance, 28(1), 19-34.
[4]. Bodurtha, J. N., & Mark, N. C. (1991).
Testing the CAPM with Time‐Varying risks
and returns. The Journal of Finance, 46(4),
1485-1505.
[5]. Dzaja, J., & Aljinovic, Z. (2013). Testing
CAPM model on the emerging markets of
the Central and Southeastern Europe.
Croatian Operational Research Review,
4(1), 164-175.
[6]. Elsas, R., El-Shaer, M., & Theissen, E.
(2003). Beta and returns revisited: evidence
from the German stock market. Journal of
International Financial Markets, Institutions
and Money, 13(1), 1-18.
[7]. Engel, C., & Rodrigues, A. P. (1989). Tests
of international CAPM with time-varying
covariances. Journal of Applied
Econometrics, 4, 119-138.
[8]. Fama, E. F., & French, K. R. (1992). The
cross-section of expected stock returns. The
Journal of Finance, 47(2), 427-465.
[9]. Fama, E. F., & French, K. R. (2006). The
value premium and the CAPM. The Journal
of Finance, 61(5), 2163-2185.
[10]. Fama, E. F., & MacBeth, J. D. (1973). Risk,
return, and equilibrium: Empirical tests. The
Journal of Political Economy, 607-636.
[11]. Fletcher, J. (1997). An examination of the
cross-sectional relationship of beta and
return: UK evidence. Journal of Economics
and Business, 49(3), 211-221.
[12]. Gursoy, C. T., & Rejepova, G. (2007). Test
of capital asset pricing model in
Turkey. Doguş Universitesi Dergisi, 8(1),
47-58.
[13]. Hoang, T. V., Huy, N. N., & Phong, N. A.
(2014). Mô hình định giá tài sản hợp lý tại
VN. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công
nghệ, 17(2Q), 63-72.
[14]. Jagannathan, R., & Wang, Z. (1996). The
conditional CAPM and the cross-section of
expected returns. Journal of Finance, 3-53.
[15]. Karacabey, A. A., & Karatepe, Y. (2004).
Beta and Returns: Istanbul stock exchange
evidence. Investment Management and
Financial Innovations, 3, 86-89.
[16]. Lewellen, J., & Nagel, S. (2006). The
conditional CAPM does not explain asset-
pricing anomalies. Journal of financial
economics, 82(2), 289-314.
[17]. Ngoc, T. T. B. (2015). Kiểm định mô hình
định giá tài sản vốn (CAPM) đối với cổ
phiếu niêm yết trên HOSE. Tạp chí Khoa
học Đại học Huế, 101(2).
[18]. Pettengill, G. N., Sundaram, S., & Mathur, I.
(1995). The conditional relation between
beta and returns. Journal of financial and
quantitative analysis, 30(01), 101-116.
[19]. Phong, N. A. (2012). Sự phù hợp của mô
hình định giá tài sản vốn (CAPM) tại
TTCKVN. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng,
(73), 45.
[20]. Ocampo, P.B. Jr., (2003). Alternative
methodologies for testing CAPM in the
Philippine equities market. Working paper,
University of Limoges, France.
mpo.PDF
[21]. Tang, G. Y., & Shum, W. C. (2004). The
risk–return relations in the Singapore stock
market. Pacific-Basin Finance Journal,
12(2), 179-195.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kiem_dinh_mo_hinh_dinh_gia_tai_san_von_capm_tai_thi_truong_c.pdf