Trong nền kinh tế hiện nay, một trong những nguyên nhân chính gây ra những cuộc khủng hoảng
kinh tế là do sự yếu kém của hệ thống ngân hàng. Khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra,
dường như nó chỉ là một đốm lửa trên đỉnh núi. Nhưng trong thế giới kết nối mà chúng ta đang
sống, đốm lửa nhỏ ấy đã mở đầu cho một đám cháy lớn. Cơn chấn động trên Phố Wall nơi ngọn
lửa đã bùng cháy và tiếp tục lan xa đã tác động đến tất cả những ai có liên quan đến tài chính. Mối
quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng - khách hàng - nền kinh tế, đòi hỏi các ngân hàng phải chủ động
trong mọi tình huống, dự báo, dự đoán được khả năng xảy ra và định lượng rủi ro. Từ đó có biện
pháp phòng ngừa hạn chế thấp nhất tác động của rủi ro.
7 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 10/05/2022 | Lượt xem: 405 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Khủng hoảng tài chính toàn cầu - Một số giải pháp ứng phó của hệ thống ngân hàng Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU - MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ
CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Nguyễn Thị Hồng Yến*, Trần Phạm Văn Cương
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong nền kinh tế hiện nay, một trong những nguyên nhân chính gây ra những cuộc khủng hoảng
kinh tế là do sự yếu kém của hệ thống ngân hàng. Khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra,
dường như nó chỉ là một đốm lửa trên đỉnh núi. Nhưng trong thế giới kết nối mà chúng ta đang
sống, đốm lửa nhỏ ấy đã mở đầu cho một đám cháy lớn. Cơn chấn động trên Phố Wall nơi ngọn
lửa đã bùng cháy và tiếp tục lan xa đã tác động đến tất cả những ai có liên quan đến tài chính. Mối
quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng - khách hàng - nền kinh tế, đòi hỏi các ngân hàng phải chủ động
trong mọi tình huống, dự báo, dự đoán được khả năng xảy ra và định lượng rủi ro. Từ đó có biện
pháp phòng ngừa hạn chế thấp nhất tác động của rủi ro.
Từ khóa: Khủng hoảng tài chính, nguyên nhân, hậu quả, giải pháp ngăn chặn.
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH LÀ GÌ?
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một
hay một số nhân tố của nền kinh tế trong
việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài
chính của mình. Dấu hiệu của Khủng hoảng
tài chính là:
Các NHTM không hoàn trả được các khoản
tiền gửi của người gửi tiền.
Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng
được xếp loại A cũng không thể hoàn trả đầy
đủ các khoản vay cho ngân hàng. Chính phủ
từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
Các khoản cho vay mua nhà dưới chuẩn
Bắt nguồn từ thị trường địa ốc Mỹ, cuộc
khủng hoảng “nợ dưới chuẩn” (subprime) đã
lan rộng như một virus máy tính, làm chao
đảo thị trường tiền tệ và chứng khoán quốc tế.
Ngân hàng trung ương các cường quốc đã
phải lập tức đưa ra những biện pháp cấp cứu,
nhiều tập đoàn ngân hàng, quỹ đầu tư, cơ
quan tài trợ bất động sản chịu lỗ nặng khiến
nhiều lãnh đạo bị mất chức và hàng loạt nhân
viên bị sa thải. Nhiều kinh tế gia đã tiên đoán
là kinh tế Mỹ sẽ bước vào giai đoạn suy thoái,
gây ảnh hưởng lớn cho toàn thế giới! Để tìm
hiểu, chúng ta hãy tìm về cội nguồn của vấn
đề. Vậy thế nào là cho vay dưới chuẩn?
Vay trả góp nhà theo hình thức cổ điển
Tel: 0912662033 , Email: ngocantra@yahoo.com
Ngân hàng buộc người vay phải có ít nhất 10%
- nghĩa là chỉ cho vay tối đa 90% trị giá căn
nhà. Số tiền trả góp hàng tháng thì không nên
vượt quá mức an toàn là một phần ba mức thu
nhập trước khi tính thuế. Các ngân hàng Mỹ
thường dùng một công thức gọi là “tỷ lệ
28:36” dựa vào mức thu nhập hàng tháng -
28% là tỷ lệ trước (front ratio) và 36% là tỷ lệ
sau (back ratio). Ngân hàng thường chỉ cho
vay nếu số tiền trả góp hằng tháng (kể cả thuế
và tiền bảo hiểm ngôi nhà) không vượt quá
28% (tỷ lệ trước) thu nhập hằng tháng. Cộng
thêm các khoản nợ khác (như tiền trả nợ thẻ tín
dụng, mua xe, nợ trả học phí cho con cái...) thì
tất cả không được quá 36% (tỷ lệ sau) của số
thu nhập hằng tháng. Một người lãnh lương
5.000 USD mỗi tháng thì tốt nhất là có thể dành
ra 1.400 USD (5.000 x 28%) để trả nợ mua
nhà. Không kể thuế và tiền bảo hiểm nhà cửa,
nếu dùng số tiền này để trả đều mỗi tháng thì
người ấy có thể vay trả góp theo hình thức
chiết khấu (amortization) trong 30 năm với lãi
suất 7,25%, một món nợ là 205.000 USD. Vì
cần ứng ra 10% nên người ấy có thể mua một
ngôi nhà trị giá 228.000 USD (205.000/90%)
và cần đặt cọc 23.000 USD. Ngoài ra, khi xét
đơn vay nợ thì các ngân hàng Mỹ lại còn căn
cứ vào “điểm tín dụng” (credit score) của
người đi vay. Đây là thang điểm do Công ty
Fair Isaac Corp. thiết lập, gọi tắt là điểm số
FICO, từ 300 - 900 điểm. Điểm tín dụng này
được thiết lập cho mỗi cá nhân dựa trên năm
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
yếu tố mà quan trọng nhất là “tiểu sử tín
dụng”. Điểm càng cao thì càng dễ vay và
được cho vay với lãi suất thấp hơn. Thông
thường thì người vay sẽ gặp khó khăn với
điểm tín dụng thấp hơn 620(4).
Cho vay dưới tiêu chuẩn (subprime lending)
Là hình thức cho vay rất phổ biến, đặc biệt tại
Mỹ. Thuật ngữ “dưới tiêu chuẩn - subprime” ở
đây liên quan đến vị thế tín dụng của người vay.
“Những người đi vay dưới tiêu chuẩn thường có
quá khứ tín dụng (tiền sử tín dụng) không tốt,
như thường có những khoản thanh toán quá
hạn, và có thể có những vấn đề nghiêm trọng
như phải ra toà, phá sản (4).
Cho vay thế chấp nhà đất dưới tiêu chuẩn
(subprime housing mortgage)
Là một trong những loại hình thuộc lĩnh vực
cho vay dưới tiêu chuẩn. Cho vay dưới hình
thức này đều chấp nhận đảm bảo bằng tài sản
hình thành từ vốn vay.
Vay nợ... dưới chuẩn. Tại sao ở Mỹ lại phát
triển hình thức cho vay này?
Tin tưởng rằng giá nhà cửa sẽ tiếp tục gia tăng
Nguồn tài trợ địa ốc gia tăng
Lượng tiền cho vay địa ốc gia tăng
Chứng khoán hoá các khoản cho vay thế chấp
Những món nợ địa ốc đa cấp, đa dạng nay đã
được “trái phiếu hóa” thành những sản phẩm
tài chính thông dụng và gọn gàng, có thể mua
bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ. Với niềm
tin mù quáng vào tương lai bất động sản
Mỹ, mọi người - kể cả những ngân hàng lớn -
đều lao vào mua các trái phiếu bất động sản
này. Thêm vào đó, những quỹ đầu tư lớn cũng
đã vay rất nhiều từ các ngân hàng để mua các
trái phiếu bất động sản cho nên chính các
ngân hàng lại cũng “gián tiếp” gánh thêm các
món nợ đầu tư địa ốc - qua việc tài trợ các
quỹ đầu tư mua những trái phiếu này.
Như vậy, cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp
tại Mỹ xuất phát từ việc các ngân hàng giảm
nhẹ các tiêu chuẩn cho vay cho đối với các
khoản vốn vay để mua nhà có độ rủi ro cao và
việc các ngân hàng nước này có xu hướng
chứng khoán hóa các khoản cho vay đó
KẾT QUẢ
Thị trường, sẽ thừa nhà (xem biểu đồ 01).
Biểu đồ 01 dưới đây cho thấy lượng cung nhà
ở Mỹ tăng vọt bắt đầu từ nửa cuối năm 2005
như là kết quả của quá trình cho vay mua nhà
quá “phóng khoáng” của các ngân hàng Mỹ.
Thị trường đĩa ốc Mỹ lại rơi vào thời kỳ
đóng băng, người vay tiền để mua nhà bán
kiếm lời lại không thể bán được nhà (xem
biểu đồ 02),
trong khi nhu cầu nhà ở lại giảm mạnh (xem
biểu đồ 03), cứ như thế món nợ vay mua
nhà bỗng tăng vọt. Đến lúc này các ngân
hàng bắt đầu nhận thấy nợ xấu, nợ khó đòi
tăng vọt. Số lượng nợ xấu và khách hàng vỡ
nợ cứ thế tăng, đẩy các tổ chức cho vay vào
cảnh thua lỗ đáng sợ.
Chưa hết, các khoản vay tín dụng xấu này
được chứng khoán hóa thành các loại cổ
phiếu, chẻ nhỏ ra rồi đem lên giao dịch trên
thị trường chứng khoán (TTCK).
Người vay
mua nhà
Các Ngân hàng
và các công ty
tài trợ đị a ốc
Người vay
mua nhà
Các
khoản vay
thế chấp
Chứng
khoán
hoá các
khoản vay
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Vì thế, mặc dù cuộc khủng hoảng cho vay
mua nhà chỉ xảy ra ở Mỹ nhưng ảnh hưởng
thì lan đến tận New Zealand, Đức, Pháp, Úc,
Nhật... vì họ cũng tham gia mua bán chứng
khoán loại này.
Nguyên nhân căn bản của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu hiện nay là do những vấn
đề liên quan đến thị trường nhà ở thế chấp,
Tuy nhiên, theo nhà phân tích chiến lược
Igor Nikolayev của Cơ quan kiểm toán tư
FBK - tác giả của bản nghiên cứu Thị
trường chứng khoán: “Tăng trưởng cao, sụt
giảm thấp”, nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa
của vấn đề này chính là việc cấp quá nhiều
vốn vào thị trường.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay
là do tỷ lệ cấp vốn vào thị trường so với GDP
vượt quá giá trị mà có thể đảm bảo một sự
phát triển ổn định trong tương lai. Cuộc
khủng hoảng thế chấp tại Mỹ chỉ là chất xúc
tác cho tiến trình này. Nếu nó không xảy ra,
thì cũng có một thứ khác thay thế. Một sự xụp
giảm mạnh trong tỷ lệ cấp vốn vào thị trường
chứng khoán của các nước khác nhau là điều
tất yếu, cũng giống như là sẽ tất yếu dẫn đến
cuộc suy thoái GDP.
Mỹ đã không triệt để cải tổ cơ cấu kinh tế
một cách mạnh mẽ kể từ khủng hoảng kinh
tế Châu Á năm 1997
Các nước Châu Á liên tục có thặng dự thương
mại do đồng nội tệ bị phá giá trong khủng
hoảng khiến xuất khẩu có tính cạnh tranh cao.
Mặt khác, do mất niềm tin vào IMF, Châu Á
tập trung củng cố dự trữ ngoại hối để tăng
cường khả năng đối phó với khủng hoảng tài
chính tiền tệ tương tự. Kết quả là dự trữ ngoại
tệ của các nước Châu Á đã tăng mạnh (Trung
quốc 1997: 180 tỉ; 2008: 1700 tỉ, Nhật 1997:
210 tỉ, 2008: 1 nghìn tỉ, Ấn độ: 1997: 50 tỉ,
2008: 250 tỉ). Châu Á chuyển từ châu lục
thâm hụt và nhập vốn sang thặng dư và xuất
vốn. Sau 1997, mặc dù kinh tế tăng trưởng
nhưng Mỹ luôn trong tình trạng thâm hụt cán
cân thanh toán vãng lai. Thâm hụt thương mại
với Châu Á, đặc biệt với Trung Quốc tăng
gần 250 tỉ đô la. Giá dầu tăng gấp 5 lần, từ 20
đô/thùng dầu thô lên hơn 100 đô la/thùng năm
2007 khiến nhập siêu tăng mạnh. Chiến tranh
I-rắc, Afghanistan làm ngân sách thâm hụt
800 tỉ đô. Các chính sách giảm thuế làm
nguồn thu ngân sách giảm. Do vậy tăng
trưởng kinh tế của Mỹ sau năm 1997 là không
bền vững. Thay vì các biện pháp cải cách
kinh tế sâu rộng để củng cố tăng trưởng, Mỹ
chọn việc nhập khẩu vốn (vay nợ) của Châu
Á, chủ yếu là của Trung Quốc để khác phục
thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai. Việc
vay nợ được thực hiện qua phát hành các trái
phiếu kho bạc và doanh nghiệp. Trong gần
mười năm, quá trình vay nợ này được tiến hành
thuận lợi, Mỹ trở thành con nợ lớn nhất thế giới
và châu Á, trong đó Trung Quốc là điển hình,
trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới. Trung Quốc
sở hữu 38% trái phiếu kho bạc Mỹ.
Việc vay nợ dễ dàng để khắc phục cán cân
thanh toán vãng lai không những trì hoãn cải
cách kinh tế lẽ ra phải được thực hiện sớm, mà
còn khiến tín dụng Mỹ phát triển thái quá.
Thay vì nâng lãi xuất cơ bản để thắt chặt tín
dụng, Ngân hàng Trung ương Mỹ lại duy trì lãi
xuất thấp để khuyến khích vay nợ nước ngoài.
Khi tín dụng mở rộng, lãi xuất cơ bản thấp đã
kích thích thị trường tài chính và thị trường
chứng khoán. Các ngân hàng đầu tư và công
ty tài chính lao vào các hoạt động kinh doanh
rủi ro với mục đích thu lời cao hơn nữa. Đầu
tiên, các kinh doanh rủi ro tập trung vào lĩnh
vực công nghệ viễn thông (IT). Sự đầu cơ quá
đáng trong lĩnh vực IT đã dẫn đến qua bong
bóng viễn thông nổ vào năm 2000 và kinh tế
Mỹ đi vào suy thoái trong năm 2001. Cùng
với quả bong bóng IT nổ, thị trường chứng
khoán Mỹ cũng lao đao vì những vụ gian lận
tín dụng như vụ Eron năm 2002.
Mở rộng thị trường cạnh tranh, nhưng lầm
lẫn giữa “rào cản” cần phá bỏ và các
“kiểm soát” cần bảo vệ
Cho phép ngân hàng thương mại (commercial
banks) hoạt động đa năng và rộng khắp cả
nước. Mở cửa tự do cho mọi loại công cụ tài
chính mới xuất hiện mà không có sự kiểm
soát nào.Cho phép các hành động đầu tư hoàn
toàn mang tính đầu cơ. Bán khống trần trụi
(naked shorting) là một thí dụ. Đây là hành
động mà giới tài chính có thể sử dụng để đẩy
giá một loại chứng khoán nào đó xuống để
làm giàu. Họ bán chứng khoán ra (dù không
có chứng khoán trong tay) - tức là bán được
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
giá cao - và làm thế giá chứng khoán bị đẩy
xuống, họ mua lại với giá thấp.
Kinh doanh mạo hiểm vượt quá giới hạn
của các ngân hàng đầu tư và công ty tài
chính (LÒNG THAM CỦA CÁC NH)
Sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức
năng cũng đóng góp phần không nhỏ tạo ra
khủng hoảng. Trong khi các ngân hàng
thương mại bị giám sát chặt chẽ với các hệ
thống đánh giá rủi ro hiệu quả, thì các ngân
hàng đầu tư và công ty tài chính hầu như
không bị giám sát. Thêm vào đó, việc giám
sát chất lượng đánh giá tín dụng của các công
ty đánh giá tín dụng cũng không hiệu quả.Nói
cách khác, hệ thống giám sát của Mỹ với thị
trường tài chính rủi ro chưa đủ hiệu quả để có
thể quản lý thị trường này.
Bán khống làm trầm trọng thêm cuộc khủng
hoảng vì đã tạo ra làn sóng bán tháo chứng
khoán. Bán khống (Short-selling), trong tài
chính có nghĩa là một cách kiếm lợi nhuận từ
sự kỳ vọng tụt giảm giá của một loại chứng
khoán, ngoại tệ... Bán khống là bán một loại
chứng khoán mà người bán không sở hữu tại
thời điểm bán(4). Cụ thể, họ vay chứng khoán
để bán và sau đó mua lại chứng khoán với
giá thấp hơn để trả cho người họ vay, phần
chênh lệch giá thấp hơn đó mang lại lợi
nhuận cho người bán khống.
HẬU QUẢ
Phá sản hàng loạt các ngân hàng và công
ty tài chính
Tổng số lượng vốn của toàn bộ hệ thống tài
chính Mỹ bị thiệt hại là gần 2 nghìn tỉ.
Các ngân hàng trên thế giới đồng loạt thua lỗ
Các ngân hàng và các định chế tài chính có
thể lỗ 1 tỷ USD từ cuộc khủng hoảng tín
dụng do khủng hoảng nợ dưới chuẩn cho
vay cầm cố.
Do lượng nợ xấu ngày một tăng đã được
chuyển sang cho những công ty thu hồi nợ
chuyên nghiệp, nên ngành công nghiệp thu
hồi nợ dự tính sẽ tăng trưởng 9,5% năm 2008
và sẽ tiếp tục có tăng trưởng chừng nào nợ
quá hạn vẫn tiếp tục tăng.
Gánh nặng trả nợ của người vay tiền
Suy thoái kinh tế toàn cầu: Dự báo tăng
trưởng giảm.
Những dự báo về tăng trưởng kinh tế ngày
càng bi quan do thu hẹp tín dụng ngày càng lộ
rõ. Dưới đây là dự báo của IMF kể từ năm
2006 đối với kinh tế thế giới (3).
Dự báo kinh tế thế giới từ năm 2006
Thị trường tín dụng đóng băng
Các khoản vay thế chấp đã giảm hẳn trong
năm 2008 trong đó khoản vay thế chấp
thương mại hoàn toàn biến mất trên biểu đồ.
Thị trường chứng khoán bất ổn
Thị trường chứng khoán trên toàn thế giới, từ
Thượng Hải cho tới London đều sụt giảm.
Trong khi đó tại nước Mỹ, chỉ số công nghiệp
Dow Jones cũng mất điểm mạnh và xuống
thấp nhất trong năm.
Biểu đồ chỉ số công nghiệp Dow Jones
trong 12 tháng qua (tính đến hết 31/7)
Thị trường địa ốc sụp đổ
Nguyên nhân cơ bản khiến thị trường tài
chính chao đảo là do giá nhà tại Mỹ giảm
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
mạnh lan ra toàn nước Mỹ lần đầu tiên kể từ
những năm 30.
Giá nhà sẽ tiếp tục xuống. Cho đến nay giá
nhà ở một số nơi như thành phố New York
gần như chưa bị ảnh hưởng. Nhưng với số
người trong khu vự tài chính mất việc làm,
khả năng xuống giá ở New York là rất cao.
Lạm phát gia tăng (giá cả lương thực, nguyên
liệu): Giá hàng hóa leo thang
Giá hàng hóa đã leo thang chóng mặt trong
chỉ trong vòng 12 tháng qua đặc biệt là giá
vàng và giá dầu. Giá vàng tăng thêm 54%
trong khi giá dầu tăng tới 91%. Đồng euro
trước khi bị mất giá so với đồng USD trong
thời gian gần đây cũng đã tăng giá thêm 18%
so với đồng USD.
Lạm phát trong tương lai sẽ tăng cao dù giá
xăng dầu xuống vì mức tín dụng được Fed
đẩy mạnh để cứu nguy các công ty tài chính
và để nền kinh tế không đi vào suy thoái.
Điều có thể xảy ra là nền kinh tế suy thoái
hoặc phát triển chậm nhưng lạm phát vẫn cao.
Thất nghiệp
Dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế Mỹ thể
hiện rõ qua con số người bị mất việc làm.
Kể từ đầu năm 2008 đến nay đã có khoảng
1,2 triệu người Mỹ mất việc làm, chiếm
8,5% dân số Mỹ.
VIỆT NAM CÓ BỊ ẢNH HƯỞNG?
Tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng đến
kinh tế trong nước không lớn. Tuy nhiên, tác
động gián tiếp thì lại rất mạnh mẽ. Thực tế,
thời gian qua vẫn chưa ghi nhận và đo lường
được những thiệt hại cụ thể nào từ cuộc
khủng hoảng này đối với nước ta. Điều này
được thể hiện ở một số mặt sau:
Trong thời gian qua không biểu hiện nào cho
thấy các ngân hàng có liên quan đến cho vay thế
chấp bất động sản dưới tiêu chuẩn ở Mỹ có chi
nhánh tại Việt Nam rút vốn về nước. Bên
cạnh đó, hiện tại chưa có ngân hàng Việt
Nam nào có hoạt động cho vay thế chấp bất
động sản trên thị trường Mỹ. Vì vậy sự ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng này đến Việt
Nam hiện tại ít có khả năng.
Mặc dù cuộc khủng hoảng nhà đất đã lan sang
thị trường chứng khoán của một số quốc gia
hàng đầu thế giới, nhưng ảnh hưởng của nó
đối với thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn
không nhiều. Sự sụt giảm chỉ số VN Index
được đánh giá chưa hẳn là do tác động của
cuộc khủng hoảng, nguyên nhân chính có thể
là do VN Index trở về với giá trị thực của nó.
VIỆT NAM LÀM GÌ NẾU KHỦNG
HOẢNG KÉO DÀI
Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia
Lê Đức Thúy nhấn mạnh:
"Nhiệm vụ trọng tâm trong những tháng cuối
năm và năm sau là coi việc ngăn ngừa chiều
hướng đình trệ sản xuất kinh doanh"(2).
Một số giải pháp để ứng phó với cuộc khủng
hoảng bao gồm:
Nâng cao năng lực tài chính của các ngân
hàng để tăng khả năng chống đỡ với những
ảnh hưởng khách quan;
Trở lại nguyên tắc lãi suất thỏa thuận chứ
không nên áp dụng trần lãi suất như hiện nay;
Phải lấy tỷ giá thực làm cơ sở định tỷ giá
danh nghĩa;
Tháo dỡ hạn mức tăng trưởng tín dụng không
quá 30% để tạo điều kiện cho các tổ chức
tín dụng có thể phân bổ vốn đến những nơi
có hiệu quả.
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngân hàng Nhà nước sẽ kiểm soát và giám sát
bằng hệ số an toàn vốn, dự phòng rủi ro; có
một số giải pháp về việc miễn, hoãn hay hoàn
thuế cho DN...
Để giảm bớt tác động tiêu cực của cuộc
khủng hoảng toàn cầu, các doanh nghiệp Việt
Nam nên có chiến lược tồn tại bằng cách củng
cố dòng tiền mặt.
Các doanh nghiệp cũng nên định hướng xuất
khẩu sang các thị trường mới ở Trung Đông
và ASEAN cũng như thị trường nội địa.
Các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần
rút ra những bài học kinh nghiệm từ một loạt
các sự kiện gần đây.
Chúng ta cần ngăn chặn một cuộc khủng hoảng
ngân hàng liên quan đến các khoản cho vay bất
động sản xấu. Hoạt động thanh tra, kiểm tra
phải được tiến hành nghiêm khắc và Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) nên sẵn sàng bơm thanh
khoản cho hệ thống ngân hàng khi cần thiết và
có kế hoạch sáp nhập những ngân hàng yếu vào
những ngân hàng mạnh.
NHNN nên có kế hoạch bảo hiểm các khoản
tiền gửi ngân hàng.
Trong trường hợp khủng hoảng thế giới xấu
đi, cơ quan quản lý cần kích thích tiêu dùng
trong nước thông qua chính sách tín dụng
mềm dẻo hơn. Việc NHNN cắt giảm lãi suất
cơ bản cùng một số biện pháp nới lỏng chính
sách tiền tệ khác là bước đi đúng hướng.
KIẾN NGHỊ VỚI CÁC BÊN LIÊN QUAN
Đối với các Ngân hàng thương mại
Rà soát lại và thường xuyên kiểm tra mục
đích sử dụng vốn của khách hàng vay.
Tỷ lệ cho vay trên giá trị căn nhà thấp và chỉ
cho vay đối với khách hàng có tiền sử tín
dụng tốt.
Thẩm định thật kỹ các dự án nhà đất và phải
thẩm định cả phần rủi ro nếu thị trường rơi
vào tình trạng đóng băng.
Đối với Ngân hàng nhà nước
Tiếp tục hoàn chỉnh để tiến tới ban hành Cơ
chế tiếp nhận xử lý tổ chức tham gia Bảo
hiểm tiền gửi(1). Nếu được thực hiện tốt thì lần
đầu tiên Việt Nam sẽ có một cơ chế tiếp nhận
và xử lý đồng bộ các ngân hàng khi khủng
hoảng và đổ vỡ. Như vậy, kể từ nay các
TCTD khi gặp sự cố, có nguy cơ dẫn đến đổ
vỡ sẽ được tiếp nhận và xử lý theo một quy
trình chuẩn, hạn chế hậu quả ở mức thấp nhất
và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Bên
cạnh đó, sẽ tạo ra một môi trường pháp lý cho
việc giải quyết phá sản, giải thể phù hợp với
đặc thù của hoạt động tiền tệ và ngân hàng,
thiết lập được một tổ chức đầu mối chịu trách
nhiệm trong xử lý khủng hoảng.
NHNN cần theo dõi sát diễn biến cuộc khủng
hoảng này để có những động thái phù hợp, đặc
biệt trong bối cảnh thị trường chứng khoán
Việt Nam vẫn trên đà suy giảm và lạm phát
trong nước tăng cao như hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bảng tổng hợp các câu hỏi phỏng vấn các cán
bộ công chức, các chuyên gia TC - NH.
[2] Phát biểu của Thống đốc Lê Đức Thúy.
[3] Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Thị trường tài
chính tiền tệ tháng 1-5 năm 2006.
[4] Website Ngân hàng Nhà nước VN -
www.sbv.gov.vn
GLOBAL FINANCIAL CRISIS - SOME SOLUTIONS RESPOND BANKING
SYSTEM OF VIETNAM
Nguyen Thi Hong Yen, Tran Pham Van Cuong
Economics and Business Administration - Thai Nguyen University
SUMMARY
The economy today, one of the main reasons causing the economic crisis is due to the weakness of
Tel: 0912662033, Email: ngocantra@yahoo.com
Nguyễn Thị Hồng Yến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 26 - 32
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
the Banking system. When the financial crisis began to take place, seems it is just a spot fire on the
mountain. But in the real world connection that we are living, he spotted a small fire was opening
a large fire. Wind shocks on Wall Street where the fire had spread and continued to burn away the
impact of all those related to finance. Close relationships between banks - customers - the
economy, requiring the banks must be active in every situation, forecast and predict the possibility
and quantify risk. Since that precautions minimize the impact of risk.
Key words: Financial crisis, causes, consequences and solutions to prevent.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khung_hoang_tai_chinh_toan_cau_mot_so_giai_phap_ung_pho_cua.pdf