Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán đã được nghiên cứu ở nhiều quốc gia với các định
nghĩa, cấu trúc, thành phần và các nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Mục đích của bài viết này là
chứng minh sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán giữa kiểm toán viên và người sử
dụng báo cáo tài chính tại Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong nghiên cứu
này tương tự như phương pháp của Best và cộng sự (2001), Dixon và cộng sự (2006). Kết quả
nghiên cứu đã cho thấy bằng chứng về sự tồn tại khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán tại Việt
Nam liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc phát hiện và ngăn chặn gian lận,
xét đoán của kiểm toán viên trong lựa chọn thủ tục kiểm toán, độ tin cậy của báo cáo kiểm toán
và báo cáo tài chính được kiểm toán, mức độ hữu ích của báo cáo kiểm toán. Bài viết này đóng
góp vào sự hiểu biết về bản chất phức tạp của khoảng cách kỳ vọng bằng cách xem xét sự tồn tại
của khoảng cách kỳ vọng trong bối cảnh kinh tế và văn hóa của Việt Nam.
11 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 24/05/2022 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán – Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho thấy không có bằng chứng về khoảng cách kỳ vọng tại Việt Nam
liên quan đến việc kiểm toán viên không nhất trí với các chính sách kế toán được sử dụng trong
báo cáo tài chính (câu 9), báo cáo tài chính là trung thực và khách quan (câu11) và mức độ công
việc kiểm toán đã được chỉ ra rõ ràng trong báo cáo kiểm toán (câu 13). Tuy nhiên, có sự khác
biệt đáng kể về mặt thống kê giữa 2 nhóm đối tượng khảo sát trong các vấn đề: đảm bảo báo cáo
tài chính không còn sai sót trọng yếu (câu 8), mức độ đảm bảo của kiểm toán viên đã được chỉ
ra rõ ràng (câu 10), đơn vị không còn gian lận (câu 12). Phát hiện này của nghiên cứu là trái
ngược với kết quả của Best và cộng sự (2001) với kết quả cho thấy tồn tại khoảng cách kỳ vọng
liên quan đến sự nhất trí của kiểm toán viên đối với chính sách kế toán hay báo cáo tài chính là
trung thực, khách quan. Mặt khác, theo bảng 4, kiểm toán viên có niềm tin cao hơn đáng kể so
với người sử dụng thông tin về việc liệu đơn vị kiểm toán không còn tồn tại gian lận, điều này
phù hợp với kết quả từ các nghiên cứu của Best và cộng sự (2001), Fadzly và Ahmed (2004),
Dixon và cộng sự (2006).
Khoảng cách kỳ vọng liên quan đến mức độ hữu ích của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài
chính được kiểm toán.
Bảng 5: Khoảng cách kỳ vọng liên quan đến mức độ hữu ích
Ghi chú: * Tồn tại sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê với p ≤ 0.05
1093
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
9. Kiểm toán viên không nhất trí với chính sách kế toán được sử dụng
trong báo cáo tài chính
4.29 4.08
10. Mức độ đảm bảo của kiểm toán viên đã được chỉ ra rõ ràng 1.71 2.71*
11. Báo cáo tài chính cung cấp cách nhìn trung thực và khách quan 2.34 2.15
12. Đơn vị được kiểm toán không tồn tại gian lận 4.03 3.17*
13. Mức độ công việc kiểm toán đã thực hiện được công bố rõ ràng 2.20 2.25
Câu hỏi
Giá trị trung bình
của hồi đáp
Kiểm toán
viên
Người
sử dụng
14. Báo cáo tài chính đã kiểm toán không hữu ích trong việc giám
sát hoạt động của đơn vị được kiểm toán
4.26 3.94*
15. Báo cáo tài chính đã kiểm toán hữu ích cho việc ra các quyết
định
4.63 4.58
16. Đơn vị được kiểm toán được quản lý tốt 2.94 3.17
Mức độ hữu ích của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính được kiểm toán được xem xét
trên các phương diện: hữu ích trong việc đưa ra các quyết định, giám sát hoạt động của đơn vị và
đảm bảo đơn vị được quản lý tốt. Bảng 5 cho thấy không tồn tại khoảng cách kỳ vọng liên quan
đến mức độ hữu ích của báo cáo tài chính được kiểm toán trong việc ra các quyết định (câu 15)
cũng như quan điểm đơn vị được kiểm toán được quản lý tốt (câu 16). Đồng thời, kết quả nghiên
cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa 2 nhóm đối tượng khảo sát liên quan
đến báo cáo tài chính được kiểm toán không hữu ích trong việc giám sát các hoạt động tại đơn
vị được kiểm toán. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Best và cộng sự (2001), Fadzly
và Ahmed (2004).
Nhìn chung, kết quả của nghiên cứu đã cho thấy tồn tại một khoảng cách kỳ vọng đáng kể
giữa kiểm toán viên và người sử dụng thông tin tại Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực trách
nhiệm phát hiện và ngăn chặn gian lận của kiểm toán viên. Bên cạnh đó, khoảng cách kỳ vọng
có tồn tại nhưng ở mức độ thấp hơn liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên đối với hiệu
quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên thực hiện xét đoán nghề nghiệp trong lựa chọn
thủ tục kiểm toán, mức độ đảm bảo báo cáo tài chính không còn tồn tại sai sót trọng yếu, báo cáo
tài chính được kiểm toán là không hữu ích trong việc giám sát hoạt động của đơn vị.
6. Kết luận
Như vậy, với mục đích là cung cấp bằng chứng về mức độ và bản chất của khoảng cách kỳ
vọng trong kiểm toán tại Việt Nam, nghiên cứu đã cho thấy sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng
với mức độ tương đối cao. Trong đó, khoảng cách kỳ vọng là đáng kể về mặt thống kê liên quan
đến trách nhiệm phát hiện và ngăn chặn gian lận của kiểm toán viên. Những phát hiện này đã đặt
ra yêu cầu đối với nghề nghiệp kiểm toán cũng như các cơ quan ban hành chuẩn mực cần có các
hành động thích hợp nhằm thu hẹp khoảng cách này trong tương lai nhằm gia tăng niềm tin của
công chúng đối với kiểm toán.
Nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như cỡ mẫu còn nhỏ, chỉ gồm 2
nhóm đối tượng khảo sát là kiểm toán viên và người sử dụng thông tin. Nghiên cứu cũng chưa
chỉ ra được sự khác biệt trong kỳ vọng giữa các nhóm đối tượng khảo sát có kinh nghiệm nghề
nghiệp khác nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
Nguyễn Ngọc Khánh Dung (2016), Khoảng cách kỳ vọng kiểm toán: trách nhiệm của kiểm
toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Trường ĐH Kinh tế
TPHCM.
Vũ Hữu Đức & Võ Thị Như Nguyệt (2012), Khoảng cách thông tin trên BCKT – nghiên
cứu thực nghiệm ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiếng Anh
Bailey, K.E., Bylinski, J.H. and Shields, M.D. (1983), “Effects of audit report wording
changes on the perceived message”, Journal of Accounting Research, Vol. 21, Spring, pp. 355-70
1094
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Beattie V, Brandt R, Fearnley S (1998), “Auditor independence and the expectations gap:
Some evidence of changing user perceptions”, Journal of Financial Regulation and Compliance
6(2): 159–170
Best PJ, Buckby S, Tan C (2001), “Evidence of the audit expectation gap in Singapore”,
Managerial Auditing Journal 16(3): 134–144.
Cohen Commission (1978), “ Report of the Commission on Auditors’ Responsibilities;
Conclusions and Recommendations”, New York: American Institute of Certified Public Ac-
countants
Davidson, L. (1975), “The role and responsibilities of the auditor: perspectives, expecta-
tions and analysis”, Unpublished background paper for the Commission on Auditors’ Responsi-
bilities.
Dixon R, Woodhead AD, Sohliman M (2006), “An investigation of the expectation gap
in Egypt”, Managerial Auditing Journal 21(3): 293–302.
Epstein MJ, Geiger MA (1994), “Investor views of audit assurance: re cent evidence of
the expectation gap”, Journal of Accountancy 177(1, January): 60–66.
Elliott Richard & Elliott Christine (2005), “Idealized images of the male body in advertis-
ing: a reader-response exploration”, Jounrnal of marketing communications, vol.11, No.
1, March 2005, 3-19
Fadzly MN, Ahmad Z (2004), “Audit expectation gap. The case of Malaysia”, Managerial
Auditing Journal 19(7): 897–915
Hayes, R., Dassen, R., Schilder, A. & Wallage, P. (2005), “Principles of auditing.”, An
introduction to International Standards on Auditing. 2nd ed. Gosport: Prentice-Hall
Hermanson RH, Stephen E, Strawser R (1993), “Auditing Theory and Practice”, Third
Edition, Homewood, Boston, US
Humphrey C, Moizer P, Turley S (1992), “The audit expectations gap – Plus ca change,
Plus c’est la meme chose”, Critical Perspectives on Ac counting 3(2): 137–161.
Humphrey C, Moizer P, Turley S (1993), “The audit expectations gap in Britain: An
empirical investigation”, Accounting and Business Research 23(91A): 395–411
Jensen, M. & W. Meckling (1976), “Theory of a firm: managerial behaviour, agency costs
and ownership structure”, Journal of Financial Economics 3:4, 305–360,
Koo, C. M. & Sim, H. S. (1999), “On the Role Conflict of Auditors in Korea”, Accounting,
Auditing & Accountability Journal, 12 (2), 206-219.
Koh HC, Woo ES (1998), “The expectation gap in audit ing”, Managerial Auditing Journal
13(3): 147–154
Liggio C (1974), “The expectation gap: The accountant’s Waterloo”, Journal of Contem-
porary Business 3(3): 27–44.
McEnroe JE, Martens SC (2001), “Auditors’ and investors’ percep tions of the “expectation
gap””, Accounting Horizons 15(4): 345– 358.
1095
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Monroe GS, Woodliff DR (1994), “An empirical investigation of the audit expectation gap:
Australian evidence”, Accounting and Finance 34(1): 47–74.
Porter B (1993), “An empirical study of the audit expectation-per formance gap”, Account-
ing and Business Research 24(93): 49–68.
Porter B, Gowthorpe C (2004), “Audit expectation-performance-gap in the United King-
dom in 1999 and comparison with the gap in New Zealand in 1989 and in 1999”, (The Institute
of Chartered Account ants of Scotland)
Salehi M (2011), “Audit expectation gap: Concept, nature and trace”, African Journal
of Business Management Vol. 5(21), pp. 8376-8392, 23 September, 2011
Schelluch, P. (1996), “Long-form audit report messages: further implications for the audit
expectation gap”, Accounting Research Journal, Vol. 9 No. 1, pp. 48-55
Scott, Linda M. (1994), “Images in Advertising: The Need for a Theory of Visual Rheto-
ric”, Journal of Consumer Research, 21 (September), 274-290.
1096
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoang_cach_ky_vong_trong_kiem_toan_nghien_cuu_thuc_nghiem_t.pdf