Khóa luận Việc giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường phổ thông trung học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định - Thực trạng và giải pháp

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra cho ngành giáo dục và đào tạo một vai trò to lớn trong việc trực tiếp tham gia bồi dưỡng nguồn nhân lực con người. Nguồn lực con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại của đất nước. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nhấn mạnh: Giáo dục - đào tạo phải: "Xác định rõ hơn mục tiêu thiết kế nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, lựa chọn những nội dung có tính cơ bản, hiện đại. Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình đào tạo ".

Trọng trách này đặt lên vai tất cả những người làm công tác giáo dục mà đặc biệt là những người đảm nhận công tác giảng dạy chuyên ngành lý luận Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có những người trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông trung học.

Nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức cho học sinh được tất cả các môn học, tất cả các hình thức giáo dục của nhà trường thực hiện. Nhưng chỉ có môn Giáo dục công dân mới có thể giáo dục trực tiếp cho học sinh những tri thức theo một hệ thống xác định, toàn diện về thế giới quan và nhân sinh quan, mới giúp học sinh hiểu được quy luật phát triển tất yếu, khách quan của xã hội loài người.

Có thể nói, không một môn học nào lại sát với đời sống thực tế như môn Giáo dục công dân. Các tri thức khoa học Giáo dục công dân bao gồm phạm vi kiến thức rộng lớn, bao quát toàn bộ đời sống xã hội. Những kiến thức đó thuộc về: Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Đạo đức học, Pháp luật, Mỹ học và các đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi một lĩnh vực của bộ môn Giáo dục công dân trong trường phổ thông trung học đều nhằm vào mục tiêu chung là đào tạo ra những lớp người vừa có trí tuệ, vừa có nhân cách để đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước. Đặc biệt là chương trình Giáo dục công dân lớp 10 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc hình thành thế giới quan khoa học và phương pháp tư duy biện chứng cho học sinh. Toàn bộ nội dung chương trình nói về triết học với những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật đó chính là những nội dung căn bản của thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản. Và có thể nói rằng, triết học Mác - Lênin là cơ sở khoa học để giúp con người lý giải được một cách đúng đắn toàn bộ sự vận động và phát triển của thế giới, mà thế giới của chúng ta là thế giới vật chất, con người có thể nhận thức được nó và cải tạo nó. Từ đó xây dựng cho mình một niềm tin lý tưởng, hoài bão trong cuộc sống.

Vấn đề có vai trò và ý nghĩa quan trọng như vậy song thực tiễn thì việc giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân nói chung, môn Giáo dục công dân lớp 10 nói riêng ở một số trường phổ thông trung học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định còn nhiều điều bất cập, chưa thỏa đáng thể hiện ở chỗ giáo viên lên lớp thiếu nhiệt tình, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, không hoàn thành tốt nhiệm vụ của bộ môn, học sinh thì không tự giác, tích cực hứng thú học tập

Từ những lý do trên đây đã thôi thúc tôi chọn đề tài: "Việc giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường phổ thông trung học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định - Thực trạng và giải pháp" để làm khóa luận tốt nghiệp cuối khóa.

 

doc48 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Khóa luận Việc giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường phổ thông trung học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra cho ngành giáo dục và đào tạo một vai trò to lớn trong việc trực tiếp tham gia bồi dưỡng nguồn nhân lực con người. Nguồn lực con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại của đất nước. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nhấn mạnh: Giáo dục - đào tạo phải: "Xác định rõ hơn mục tiêu thiết kế nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, lựa chọn những nội dung có tính cơ bản, hiện đại. Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình đào tạo…". Trọng trách này đặt lên vai tất cả những người làm công tác giáo dục mà đặc biệt là những người đảm nhận công tác giảng dạy chuyên ngành lý luận Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có những người trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông trung học. Nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức cho học sinh được tất cả các môn học, tất cả các hình thức giáo dục của nhà trường thực hiện. Nhưng chỉ có môn Giáo dục công dân mới có thể giáo dục trực tiếp cho học sinh những tri thức theo một hệ thống xác định, toàn diện về thế giới quan và nhân sinh quan, mới giúp học sinh hiểu được quy luật phát triển tất yếu, khách quan của xã hội loài người. Có thể nói, không một môn học nào lại sát với đời sống thực tế như môn Giáo dục công dân. Các tri thức khoa học Giáo dục công dân bao gồm phạm vi kiến thức rộng lớn, bao quát toàn bộ đời sống xã hội. Những kiến thức đó thuộc về: Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Đạo đức học, Pháp luật, Mỹ học và các đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi một lĩnh vực của bộ môn Giáo dục công dân trong trường phổ thông trung học đều nhằm vào mục tiêu chung là đào tạo ra những lớp người vừa có trí tuệ, vừa có nhân cách để đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước. Đặc biệt là chương trình Giáo dục công dân lớp 10 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc hình thành thế giới quan khoa học và phương pháp tư duy biện chứng cho học sinh. Toàn bộ nội dung chương trình nói về triết học với những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật đó chính là những nội dung căn bản của thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản. Và có thể nói rằng, triết học Mác - Lênin là cơ sở khoa học để giúp con người lý giải được một cách đúng đắn toàn bộ sự vận động và phát triển của thế giới, mà thế giới của chúng ta là thế giới vật chất, con người có thể nhận thức được nó và cải tạo nó. Từ đó xây dựng cho mình một niềm tin lý tưởng, hoài bão trong cuộc sống. Vấn đề có vai trò và ý nghĩa quan trọng như vậy song thực tiễn thì việc giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân nói chung, môn Giáo dục công dân lớp 10 nói riêng ở một số trường phổ thông trung học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định còn nhiều điều bất cập, chưa thỏa đáng thể hiện ở chỗ giáo viên lên lớp thiếu nhiệt tình, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, không hoàn thành tốt nhiệm vụ của bộ môn, học sinh thì không tự giác, tích cực hứng thú học tập… Từ những lý do trên đây đã thôi thúc tôi chọn đề tài: "Việc giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường phổ thông trung học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định - Thực trạng và giải pháp" để làm khóa luận tốt nghiệp cuối khóa. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài có mục đích và nhiệm vụ sau đây: Một là, nghiên cứu bản chất việc giảng dạy môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông trung học, vị trí chức năng, tầm quan trọng, đặc biệt ở lớp 10. Hai là, nghiên cứu thực trạng việc giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường phổ thông trung học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Ba là, trên cơ sở nhiệm vụ một và nhiệm vụ hai, đề tài đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy môn Giáo dục công dân trong trường phổ thông trung học nói chung và chương trình Giáo dục công dân lớp 10 nói riêng. 3. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học để quá trình thực hiện đạt được độ tin cậy và chính xác cao. Cụ thể: - Phương pháp điều tra xã hội học. - Phương pháp quan sát sư phạm - Phương pháp phỏng vấn - Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm sư phạm - Phương pháp nghiên cứu tài liệu và sản phẩm hoạt động sư phạm Ngoài ra đề tài còn phối hợp các phương pháp liên ngành như phân tích tổng hợp, thống kê toán học trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. 4. ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, thực tiễn đặt ra nhiều yêu cầu bức xúc. Từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay, mặc dù đất nước còn nghèo do hậu quả chiến tranh, song sự nghiệp giáo dục - đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đó là mạng lưới trường học phát triển rộng khắp, đã ngăn chặn được sự giảm sút quy mô và có bước tăng trưởng khá. Chất lượng giáo dục - đào tạo có tiến bộ bước đầu trên một số mặt về các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật ở bậc phổ thông và đại học hệ tập trung. Trong giáo dục - đào tạo xuất hiện một số nhân tố mới. Tuy vậy, giáo dục - đào tạo nước ta còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô, cơ cấu và nhất là về chất lượng và hiệu quả chưa đáp ứng kịp những nhu cầu đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay sự nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô giáo dục và đào tạo, vừa phải gấp rút chuẩn bị nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trong khi điều kiện và khả năng đáp ứng yêu cầu còn nhiều hạn chế. Đó là mâu thuẫn trong quá trình phát triển, đòi hỏi những người làm công tác giáo dục- đào tạo phải giải quyết với tinh thần cách mạng sâu sắc mới có hiệu quả được. Trước thực trạng của sự nghiệp giáo dục - đào tạo như trên, các môn học trong nhà trường không thể không xem lại mình, nhất là môn Giáo dục công dân – một môn học đã từ lâu không được quan tâm… Trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp cho việc giảng dạy môn học này đúng với vị trí trong trường học của nó để góp phần xây dựng con người và thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 5. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 3 chương, 10 tiết. Chương 1 Một số vấn đề lý luận về giảng dạy môn giáo dục Công dân ở trường phổ thông trung học 1.1. Vị trí, nhiệm vụ, chức năng của môn Giáo dục công dân trong trường phổ thông trung học Cuộc sống con người luôn luôn vận động và phát triển cùng với sự vận động và phát triển của xã hội. Đất nước sau gần 20 năm đổi mới đã thu được nhiều thành tựu to lớn: đời sống của nhân dân được nâng nên rõ rệt. Tuy nhiên mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động trực tiếp đến những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mà chính nhờ có nó chúng ta đã và đang khẳng định những giá trị Việt Nam. Bởi thế, hơn lúc nào hết, giáo dục có vai trò to lớn để phát huy nhân tố con người, giáo dục con người thành những công dân có ích để xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc giáo dục phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức cho học sinh do tất cả các môn học, các hình thức giáo dục của nhà trường thực hiện. Song môn Giáo dục công dân khác với các môn khoa học khác ở chỗ, trực tiếp hình thành phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Cho nên nó góp phần quan trọng trong việc đào tạo học sinh thành những người lao động mới, hình thành những phẩm chất tốt đẹp, tích cực của một người công dân tương lai, có thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến, có đạo đức trong sáng, ra sức thực hiện đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, có ý thức trách nhiệm cao đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, đối với gia đình và đối với chính bản thân mình. Điều đó nói lên vị trí đặc biệt quan trọng của bộ môn Giáo dục công dân trong trường phổ thông trung học nói chung và chương trình Giáo dục công dân lớp 10 nói riêng, nó được xếp ngang hàng với các môn học khác. Nó cùng với các môn học khác góp phần đào tạo nên tính giáo dục toàn diện trong trường phổ thông trung học. Lịch sử của môn Giáo dục công dân có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn từ năm 1990 - 1991 trở về trước và giai đoạn 1990 - 1991 trở về đây. Mốc năm 1990 - 1991 là giai đoạn canh tân giáo dục, nền giáo dục nước ta có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng giáo dục. Chính vì vậy, giai đoạn trước, môn Giáo dục công dân có tên gọi là môn chính trị nên có phần nặng về tuyên truyền, thuyết minh đường lối cách mạng của Đảng và Nhà nước và có phần nhẹ về tri thức khoa học của môn học. Nhưng từ năm 1990 - 1991 chúng ta xác định môn Giáo dục công dân là một môn khoa học - xã hội trong trường phổ thông trung học. Với tư cách là một môn khoa học- xã hội nên nó có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu đặc thù của bộ môn. Môn Giáo dục công dân nó không chỉ nghiên cứu một lĩnh vực riêng lẻ mà nó nghiên cứu tất cả các lĩnh vực của đời sống (tự nhiên, xã hội, tư duy). Với một phạm vi kiến thức rộng lớn như vậy nên nó có sự khái quát cao để hình thành nên chức năng của bộ môn. Chức năng của bộ môn Giáo dục công dân nó xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nên nó có chức năng giáo dưỡng và giáo dục. Thể hiện: Thông qua các tri thức của môn học bồi dưỡng cho học sinh một hệ thống tri thức khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Những tri thức đó được cụ thể thành các phân môn: Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Đạo đức và pháp luật, Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở nắm vững các khái niệm, nguyên lý, quy luật, luận điểm chính trị, bồi dưỡng cho học sinh một phương pháp tư duy khoa học, biết đánh giá cái đúng, cái sai trong các hiện tượng xã hội. Toàn bộ những tri thức của bộ môn Giáo dục công dân được sắp xếp theo chương trình phù hợp với khả năng tiếp thu của lứa tuổi học sinh cũng như đảm bảo tính logic và thiết thực của bộ môn. Cụ thể: lớp 10: Học Triết học Lớp 11: Là chương trình tổng hợp của tri thức về thời đại, về xã hội trong đó chủ đạo là các quan điểm về kinh tế của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, các quan điểm về đạo đức Lớp 12: Những tri thức về pháp luật, các đường lối của Đảng ta về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Các tri thức môn Giáo dục công dân được phân ra thành các khối lớp nhưng nó đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đều nhằm vào mục tiêu trang bị tri thức cho học sinh. Chúng ta không thể đào tạo ra những con người mới phát triển toàn diện khi chỉ chú ý đến mặt này mà lại không quan tâm đến mặt kia. Nhất là trong bối cảnh hiện nay khi đất nước ta còn nghèo, còn tụt hậu hơn nhiều so với các nước phát triển trên thế giới thì việc giáo dục ý thức cho người dân là rất cần thiết. Giáo dục ý thức trong lao động, trong quan hệ, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của mỗi người, ý thức trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa … đặc biệt là đối với học sinh phổ thông trung học hiện nay là rất quan trọng. Điều đó khẳng định sự cần thiết của việc đưa môn Giáo dục công dân trở về đúng vị trí và chức năng của môn học trong nhà trường phổ thông trung học. Nhưng trước hết, cần phải trang bị cho thế hệ trẻ một thế giới quan khoa học, một nhân sinh quan tiên tiến mới có thể đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc được, và mới có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở một nước có xuất phát điểm rất thấp như Việt Nam. Việc trang bị thế giới quan là rất cần thiết cho lứa tuổi học sinh đang chập chững bước vào giai đoạn mới của cuộc đời. Khi có được một thế giới quan khoa học thì mới có được một cách nhìn nhận đúng đắn về thế giới, về cuộc sống hiện tại, tương lai và cả quá khứ trước đó. Mà chỉ có được một thế giới quan khoa học khi được trang bị những kiến thức về triết học Mác - Lênin. Có thể nói triết học Mác - Lênin là cơ sở khoa học để lý giải toàn bộ những vấn đề thuộc về thế giới, về cuộc sống con người và xã hội loài người. Khi có được những kiến thức về triết học nó sẽ giúp chúng ta trả lời được các câu hỏi mà thường hay gây ra tranh luận giữa những người theo quan điểm duy vật và những người theo quan điểm duy tâm như: giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào? Hay, thế giới này là gì? Nó được bắt nguồn từ đâu và kết thức như thế nào? Con người có vai trò gì trong thế giới ấy…? Trong lịch sử triết học đã từng diễn ra cuộc đấu tranh giữa các quan điểm về các vấn đề nói trên, nhưng chỉ đến khi triết học Mác - Lênin ra đời mới giải quyết một cách khoa học nhất, đúng đắn nhất. Thế giới này là thế giới vật chất, vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người, nó có trước ý thức và quyết định ý thức, song ý thức của con người lại có khả năng phản ánh lại vật chất tức là ý thức tác động trở lại vật chất và nó mang tính độc lập tương đối của nó. Điều đó cũng chứng tỏ rằng con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới và cải tạo giới tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình đồng thời nó cũng khẳng định vai trò của con người trong thế giới đó. Con người không phải được tạo ra bởi sức mạnh huyền bí mà nó là sản phẩm hoàn hảo nhất, và là kết quả phát triển lâu dài nhất của tự nhiên; xã hội. Con người đóng vai trò là chủ thể cải tạo tự nhiên biến tự nhiên theo ý muốn của mình nhưng phải tuân theo các quy luật khách quan vốn có của nó. Học sinh có thể hiểu một cách thấu đáo vấn đề này qua bài 3, bài 4 trong chương trình Giáo dục công dân lớp 10: "Sự tồn tại và phát triển của giới tự nhiên, xã hội". Hiểu được những vấn đề đó chính là việc các em trang bị cho mình một thế giới quan duy vật biện chứng nhằm chống lại các quan điểm duy tâm tôn giáo cho rằng: Thế giới này là do thần linh, thượng đế tạo ra, hay con người là sản phẩm của chúa và tin vào "cái số" mà do chúa đã sắp đặt từ khi con người mới sinh ra…, mà ngay cả trong xã hội ta hiện nay quan niệm này vẫn còn tồn tại ở không ít những người có niềm tin tôn giáo cao. Nhưng nếu chỉ có quan điểm duy vật thì chưa đủ mà còn cần phải có một phương pháp tư duy biện chứng để nhìn nhận, để đánh giá sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên như chính nó đang tồn tại. Thế giới này là thế giới vật chất nhưng liệu nó có vận động và phát triển hay không? hay thế giới này đứng im, nếu có vận động thì nó vận động theo chiều hướng nào và phát triển ra sao? Để trả lời được câu hỏi đó thì học sinh phải được trang bị phương pháp tư duy biện chứng trên cơ sở nắm được những nguyên lý, những quy luật và những cặp phạm trù của lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin. Và từ đó học sinh có thể vận dụng vào để lý giải những hiện tượng đang tồn tại trong cuộc sống của mình. Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới không có cái gì là đứng im mà nó luôn luôn vận động và phát triển theo những quy luật khách quan. Nguồn gốc, động lực của mọi quá trình vận động và phát triển chính là việc giải quyết mâu thuẫn của các mặt đối lập. Còn cách thức của sự phát triển là bắt đầu từ sự tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nào đó thì dẫn đến sự biến đổi chất, cứ như thế sự vật không ngừng phát triển. Sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ trên cơ sở của những cái cũ nhưng ở mức độ cao hơn đó chính là sự phủ định biện chứng…. Học sinh có thể hiểu điều đó một cách sâu sắc thông qua bài 2: "Sự phát triển của thế giới" trong chương trình Giáo dục công dân lớp 10. Từ những kiến thức đó học sinh sẽ vận dụng vào thực tiễn cuộc sống cũng như trong học tập. Đây chính là nhiệm vụ trang bị thế giới quan và phương pháp luận của bộ môn Giáo dục công dân đối với học sinh phổ thông trung học. Những kiến thức trong trường phổ thông trung học truyền thụ cho học sinh là những kiến thức hết sức cơ bản, thiết thực và mang tính khoa học về thế giới. Trên cơ sở đó học sinh sẽ tự lý giải được những vấn đã và đang xảy ra trong cuộc sống xung quanh mình đặc biệt là những vấn đề về đời sống xã hội mà ngay cả khoa học cũng đang nỗ lực tìm kiếm và giải thích. Chẳng hạn, lĩnh vực thuộc về đời sống tâm linh, hiện tượng tìm mồ, tìm mả… Vậy đứng trước vấn đề đó chúng ta cần phải có cái nhìn, một cách nhìn đúng đắn để dẫn dắt chúng ta đi theo con đường khoa học. Hay nhờ hiểu được nguyên lý về sự phát triển của thế giới và tính vật chất của thế giới trong đó có giới tự nhiên và xã hội, học sinh sẽ lý giải được những vấn đề về lịch sử phát triển của xã hội loài người. Lịch sử xã hội loài người từ buổi bình minh đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với nó là 5 chế độ xã hội. Các chế độ xã hội này phát triển từ thấp đến cao và giữa chúng luôn có sự phủ định; kế thừa. Song trong các hình thái kinh tế- xã hội đó thì hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa đã tạo ra cho nhân loại một bước nhảy vọt. Có thể nói, với ưu thế về khoa học công nghệ, về tài chính nó đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất đồ sộ, đã đem lại những thay đổi đáng kể về chất lượng của cuộc sống. Như Mác đã từng nói: "Chủ nghĩa tư bản dù mới chỉ tồn tại chưa đầy một thế kỷ nhưng nó đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất bằng tất cả các chế độ trước đó cộng lại". Nếu như trước đây trong chế độ phong kiến con người bị bó buộc bởi những luật lệ hà khắc, tự do của con người chỉ là mơ ước sẽ không bao giờ thực hiện được, giá trị của con người chỉ giống như những công cụ biết nói. Thì đến xã hội tư bản lần đầu tiên trong lịch sử quyền con người được ghi thành văn bản giấy tờ, quyền tự do được mở rộng hơn thể hiện ở chỗ con người được làm chủ sức lao động của mình. Song trên thực tế những quyền đó chỉ là một thứ bánh vẽ, chủ nghĩa tư bản không bao giờ cho phép những người dân lao động được hưởng bất cứ một quyền lợi gì. Những thứ mà chủ nghĩa tư bản gọi là trả công hay còn gọi là lương cho người lao động đó chính là một phần lao động của họ mà thôi. Thực chất đồng lương mà họ được hưởng không bao giờ tương xứng với sức lao động mà họ đã bỏ ra cho nhà tư bản, quyền tự do của họ được đánh đổi bằng cả sức lao động của mình, mà họ không thấy rằng nhà tư bản họ không những không phải làm gì mà còn được hưởng gấp trăm ngàn lần do sức lao động của người công nhân bỏ ra. Chủ nghĩa tư bản càng hiện đại thì người lao động càng bị bóc lột một cách tinh vi. Vì bản chất đế quốc của nó nên chủ nghĩa tư bản không bao giờ từ bỏ ý định xâm chiếm và bóc lột. Nên những cái mà chủ nghĩa tư bản cho là hướng tới một nền văn minh nhân đạo là những cái gây ra nhiều nỗi lo sợ nhất cho nhân loại. Chẳng hạn như với sự ra đời của máy móc hiện đại đã thay thế lao động của con người nhưng lại đẩy hàng chục triệu con người vào tình cảnh thất nghiệp. Các công nghệ mới đang trở thành công cụ mới để Chủ nghĩa tư bản tăng cường bóc lột người lao động, bóc lột những nước chậm phát triển. Hay năng lượng hạt nhân có thể phục vụ đắc lực cuộc sống của con người nhưng nó cũng có thể trở thành tai họa khủng khiếp nếu con người không thể kiểm soát được chúng, cũng có thể bị sử dụng làm phương tiện hủy diệt toàn bộ sự sống trên trái đất… Như vậy trong chủ nghĩa tư bản các thành tựu văn minh bị sử dụng vào mục đích chiến tranh và kiếm lợi nhuận tối đa, nên mục tiêu văn minh thường chống lại mục tiêu nhân đạo. Hình thái văn minh chạy theo lợi nhuận vô hạn đang đe dọa giá trị nhân văn và cứ ngày càng vượt ra khỏi sự kiểm soát, khống chế xã hội của loài người. Một thế giới "tự do" như vậy là không thể chấp nhận được đối với hiện tại và tương lai của nhân loại. Hậu quả không lường trước do các chủ trương sai lầm trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, cải tạo xã hội đang buộc chúng ta phải nhận thức lại mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, giữa tự do và tất yếu, giữa nhân đạo và phát triển. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là phải làm sao để kĩ thuật không chống lại con người, chống lại loài người và xã hội, không tàn phá môi trường sống và không tạo ra lối sống mất tính người. Văn minh phải tạo ra cái thiện và không đẻ ra cái ác. Mỗi bước tiến của văn minh phải trở thành điều kiện cao hơn nữa, hạnh phúc và phồn vinh cho tất cả mọi người, mọi dân tộc và quốc gia, phải đảm bảo vững chắc hơn cho sự tồn tại và phát triển của các thế hệ ngày hôm nay và tương lai, phải nhân đạo hóa quá trình văn minh. Nhân dân phải thực sự làm chủ và kiểm soát được các thành tựu văn minh. Muốn thế họ phải làm chủ được quyền lực, phải là người đề ra các chính sách, quyết định những vấn đề sống còn của bản thân nhân loại. Vậy vấn đề đặt ra là một xã hội văn minh phải là một xã hội như thế nào? Một xã hội văn minh phải là xã hội ưu tiên giá trị con người. Các ngành khoa học phải thống nhất lại trong một khoa học - đó là khoa học về con người và vì con người. Để làm được điều đó đòi hỏi loài người phải đứng lên nắm lấy vai trò chỉ huy quá trình văn minh đang bùng nổ trên hành tinh chúng ta. Lối sống văn minh không phải là lối quay lưng lại với đồng loại, đồng bào quê hương. Sống hiện đại phải là lối sống văn minh và nhân đạo. Nhu cầu thống nhất giữa mục tiêu văn minh và mục tiêu nhân đạo thì không thể thực hiện được trong chủ nghĩa tư bản mà đòi hỏi phải thiết lập một chế độ xã hội mới – một chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Hiện nay loài người đang gặp những khúc quanh của lịch sử. Nhưng cho dù lịch sử có quanh co, khúc khuỷu đến đâu song nhất định loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản vì đó là quy luật tất yếu của lịch sử. Đối với nước ta, thì con đường thực hiện một xã hội thống nhất giữa văn minh và nhân đạo là phải: thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, lấy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất làm nền tảng. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra lực lượng sản xuất tiên tiến và cơ sở vật chất hiện đại cho nền kinh tế. Xây dựng nền văn hóa mới Xã hội chủ nghĩa và nền khoa học tiên tiến. Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội trong từng bước đi và toàn bộ quá trình. Việt Nam đang từng bước phấn đấu xây dựng và hoàn thiện để đi tới một xã hội trong đó "Con người là thước đo của tất cả". Vậy tại sao chúng ta phải xây dựng một xã hội trong đó "con người là thước đo của tất cả"? Vì chúng ta xét thấy rằng, mọi hoạt động diễn ra trong thế giới này cuối cùng mục tiêu là vì con người. Con người là nguyên nhân và cũng là kết quả của mọi hoạt động xã hội. Con người vừa là sản phẩm của xã hội vừa là chủ thể tích cực xây dựng xã hội. Nếu không có con người thì không thể có xã hội, nhưng ngược lại nếu không có xã hội thì con người sinh ra sẽ không mang bản chất người. Như C.Mác đã từng nói: "Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Song, con người luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ "song trùng" đó là quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với xã hội. Như vậy có thể nói con người vừa là xuất phát điểm, là đầu mối, vừa là nội dung, động lực và đồng thời cũng là mục tiêu của xã hội. Vì vậy, nếu bất kỳ một chế độ xã hội nào mà không vì con người thì đó không phải là một xã hội tiến bộ, và ắt sẽ bị đẩy lùi vào lịch sử thay vào đó bằng một chế độ xã hội khác vì con người. Đó chính là nội dung của nhân sinh quan cộng sản, một nhân sinh quan đúng đắn nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất và triệt để nhất. Vậy mỗi chúng ta, là những công dân sẽ sống trong một nền văn minh, tiến bộ mà toàn thể nhân loại đang hướng tới, thì việc trang bị cho mình một nhân sinh quan cộng sản tiên tiến phải chăng lại không cần thiết. Có lẽ để trang bị cho học sinh một thế giới quan hoa học, một nhân sinh quan tiên tiến một cách trực tiếp nhất đó chính là môn Giáo dục công dân trong trường phổ thông trung học. Các em có thể nắm được những kiến thức đó thông qua bài 10, 11, 12 trong chương trình Giáo dục công dân lớp 10. Khi đã nắm được những kiến thức đó, các em sẽ có được quan niệm đúng đắn nhất về con người và xã hội loài người, để từ đó không ngừng phấn đấu vì lý tưởng nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang hướng tới một xã hội mà ở đó con người được tự do phát triển cá nhân. Nhưng sự tự do ở đây không phải là muốn làm gì thì làm, bất chấp quy luật khách quan để thỏa mãn nhu cầu của mình. Mà sinh ra trong một thế giới mà mọi sự vật, hiện tượng đều vận động theo quy luật vốn có của nó, con người, một phần tử của thế giới cũng phải hành động theo quy luật của mình. Tự do không phải là bất chấp cái tất yếu, mà là sự cần thiết phải nhận thức cái tất yếu và vận dụng nó vào hoạt động có mục đích của con người. Chẳng hạn, như con người muốn tồn tại và phát triển thì con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất đó là một nguyên tắc, con người không thể không tuân theo. Từ trước đến nay, mọi xã hội đều tồn tại và phát triển trên cơ sở lao động sản xuất, thời kỳ con người chỉ sống bằng săn bắn và hái lượm đã qua đi lâu rồi, vì thiên nhiên không thể hào phóng cung cấp cho họ những sinh vật xã hội - đầy đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan 1.doc
  • docmuc luc.doc
Tài liệu liên quan