Trong nền kinh tế hiện nay, ngân hàng thương mại (NHTM) là định chế tài chính trung gian thực hiện nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ tài chính tiện ích cho sự phát triển kinh tế xã hội và đời sống con người. Trong đó, tín dụng (TD) là nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhất vì nó là nghiệp vụ tạo ra thu nhập cơ bản cho Ngân hàng (NH). Song đây cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều áp lực và rủi ro, có thể gây tổn thất lớn cho NH. Các con số thống kê và nhiều nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng (RRTD) chiếm tới 70% trong tổng rủi ro hoạt động NH. Thực tế hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM VN) trong thời gian qua là một minh chứng cho nhận định này: Hiệu quả hoạt động tín dụng chưa cao, chất lượng tín dụng chưa tốt, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn còn cao so với khu vực và chưa có khuynh hướng giảm vững chắc. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn. Đó thực sự là một yêu cầu khách quan, là điều kiện sống còn để NHTM có thể tồn tại và phát triển. Với thực tế là doanh số cho vay, thu nợ và dư nợ đối với Doanh nghiệp (DN) luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động TD của các NHTM, cho nên hạn chế RRTD đối với DN vay vốn (DNVV) mà vẫn mở rộng TD đối với chủ thể này là vấn đề luôn nhận được sự quan tâm của các NH.
Thực tiễn đã cho thấy thất bại của NHTM trong hoạt động tín dụng gắn chặt với thiếu hiểu biết về khách hàng. Một trong những kỹ thuật quản trị RRTD của NHTM là sử dụng phân tích chấm điểm để xếp hạng uy tín về mặt tín dụng của mỗi khách hàng một cách thường xuyên. Do vậy vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ đang được các NHTM quan tâm nhằm ngăn ngừa và hạn chế RRTD, giảm bớt tỷ lệ nợ xấu phải trích lập dự phòng rủi ro, đáp ứng các yêu cầu của Basel về quản trị rủi ro -trong đó chú trọng và đề cao vai trò XHTD nội bộ đối với NHTM được quy định trong hiệp ước Basel I (năm 1988), bổ sung trong hiệp ước Basel II (năm 2004) và ngân hàng nhà nước (NHNN). Đây rõ ràng là công việc mà các NHTM cần tiến hành một cách định kỳ nhằm đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh và tăng cường hơn nữa khả năng dự báo trong quản trị RRTD.
Xếp hạng tín dụng đã được các NHTM trên thế giới thực hiện từ lâu, mang lại hiệu quả rất thiết thực. Tại Việt Nam, sau một thời gian chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vào khoảng năm 1994, một số NH đã thực hiện XHTD DN dựa vào phân tích các chỉ tiêu tài chính theo hướng dẫn của NHNN. Tuy nhiên, việc làm trên không được tiến hành thường xuyên, mang tính chất hình thức, hiệu quả kinh tế không cao. Từ năm 2000 trở lại đây, trong xu thế hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và kinh tế toàn cầu, các NHTM đứng trước thách thức về sự cạnh tranh gay gắt không chỉ đối với các NHTM trong nước mà còn với chi nhánh các NH nước ngoài, NH liên doanh. Trong bối cảnh đó, XHTD lại trở thành vấn đề được nhiều NHTM quan tâm nghiên cứu.
Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Đống Đa là chi nhánh thuộc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. Hệ thống chấm điểm tín dụng được áp dụng vào hệ thống NHCT từ năm 2004. Sau hơn 5 năm triển khai, hệ thống đã đáp ứng những yêu cầu nhất định trong công tác quản trị RRTD. Song bên cạnh đó, trong quá trình áp dụng, hệ thống vẫn bộc lộ một số bất cập cần được hoàn thiện để hệ thống phù hợp và bám sát với tình hình thực tế hơn. Đó là lý do em thực hiện khóa luận với đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP công thương Đống Đa”.
106 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1198 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Khóa luận Giải pháp hoàn thiện công tác xếp hạng tín dụng doanh nghiệp vay vốn tại chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế hiện nay, ngân hàng thương mại (NHTM) là định chế tài chính trung gian thực hiện nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ tài chính tiện ích cho sự phát triển kinh tế xã hội và đời sống con người. Trong đó, tín dụng (TD) là nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhất vì nó là nghiệp vụ tạo ra thu nhập cơ bản cho Ngân hàng (NH). Song đây cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều áp lực và rủi ro, có thể gây tổn thất lớn cho NH. Các con số thống kê và nhiều nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng (RRTD) chiếm tới 70% trong tổng rủi ro hoạt động NH. Thực tế hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM VN) trong thời gian qua là một minh chứng cho nhận định này: Hiệu quả hoạt động tín dụng chưa cao, chất lượng tín dụng chưa tốt, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn còn cao so với khu vực và chưa có khuynh hướng giảm vững chắc. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn. Đó thực sự là một yêu cầu khách quan, là điều kiện sống còn để NHTM có thể tồn tại và phát triển. Với thực tế là doanh số cho vay, thu nợ và dư nợ đối với Doanh nghiệp (DN) luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động TD của các NHTM, cho nên hạn chế RRTD đối với DN vay vốn (DNVV) mà vẫn mở rộng TD đối với chủ thể này là vấn đề luôn nhận được sự quan tâm của các NH.
Thực tiễn đã cho thấy thất bại của NHTM trong hoạt động tín dụng gắn chặt với thiếu hiểu biết về khách hàng. Một trong những kỹ thuật quản trị RRTD của NHTM là sử dụng phân tích chấm điểm để xếp hạng uy tín về mặt tín dụng của mỗi khách hàng một cách thường xuyên. Do vậy vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ đang được các NHTM quan tâm nhằm ngăn ngừa và hạn chế RRTD, giảm bớt tỷ lệ nợ xấu phải trích lập dự phòng rủi ro, đáp ứng các yêu cầu của Basel về quản trị rủi ro -trong đó chú trọng và đề cao vai trò XHTD nội bộ đối với NHTM được quy định trong hiệp ước Basel I (năm 1988), bổ sung trong hiệp ước Basel II (năm 2004) và ngân hàng nhà nước (NHNN). Đây rõ ràng là công việc mà các NHTM cần tiến hành một cách định kỳ nhằm đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh và tăng cường hơn nữa khả năng dự báo trong quản trị RRTD.
Xếp hạng tín dụng đã được các NHTM trên thế giới thực hiện từ lâu, mang lại hiệu quả rất thiết thực. Tại Việt Nam, sau một thời gian chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vào khoảng năm 1994, một số NH đã thực hiện XHTD DN dựa vào phân tích các chỉ tiêu tài chính theo hướng dẫn của NHNN. Tuy nhiên, việc làm trên không được tiến hành thường xuyên, mang tính chất hình thức, hiệu quả kinh tế không cao. Từ năm 2000 trở lại đây, trong xu thế hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và kinh tế toàn cầu, các NHTM đứng trước thách thức về sự cạnh tranh gay gắt không chỉ đối với các NHTM trong nước mà còn với chi nhánh các NH nước ngoài, NH liên doanh. Trong bối cảnh đó, XHTD lại trở thành vấn đề được nhiều NHTM quan tâm nghiên cứu.
Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Đống Đa là chi nhánh thuộc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. Hệ thống chấm điểm tín dụng được áp dụng vào hệ thống NHCT từ năm 2004. Sau hơn 5 năm triển khai, hệ thống đã đáp ứng những yêu cầu nhất định trong công tác quản trị RRTD. Song bên cạnh đó, trong quá trình áp dụng, hệ thống vẫn bộc lộ một số bất cập cần được hoàn thiện để hệ thống phù hợp và bám sát với tình hình thực tế hơn. Đó là lý do em thực hiện khóa luận với đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP công thương Đống Đa”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận tổng quan về hoạt động tín dụng tại NHTM và sự cần thiết của XHTD DNVV đối với hoạt động của NHTM.
- Nghiên cứu lý luận cũng như làm rõ khái niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng của hoạt động XHTD các DNVV tại NHTM.
- Phân tích quá trình phát triển, hoạt động TD và TD cho khách hàng là DN của NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa trong những năm gần đây. Đồng thời đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động XHTD DNVV để có sự so sánh và đưa ra đánh giá những kết quả đạt được cũng như các tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất giải pháp và đưa ra các kiến nghị đối với các chủ thể liên quan nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác này tại NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là những vấn đề về lý thuyết và thực tiễn XHTD DNVV tại NHTM ở trên Thế giới và tại Việt Nam, cũng như tình hình hoạt động và thực trạng công tác đó tại NH TMCP công thương Đống Đa. Đồng thời, khoá luận nghiên cứu một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác XHTD DN tại NH TMCP công thương Đống Đa.
Do XHTD là một lĩnh vực rộng liên quan đến nhiều chủ thể phạm vi đối tượng khác nhau. Nên trong khóa luận tốt nghiệp, đề tài này giới hạn ở mức:
- Nghiên cứu hoạt động XHTD đối với các doanh nghiệp vay vốn trong nước thuộc tất cả các ngành nghề kinh tế, không áp dụng với các TCTD khác vay vốn hay với các chủ thể kinh tế cá nhân.
- Số liệu trong khoá luận được tập hợp chủ yếu trong khoảng thời gian từ năm 2004 - 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu và tiếp cận vấn đề
Khóa luận sử dụng phương pháp phân tích số liệu định tính và định lượng để làm rõ hiện trạng hệ thống XHTD. Và bằng cách sử dụng phương pháp so sánh với các tiêu chuẩn đánh giá phổ biến trên thị trường xếp hạng tín nhiệm quốc tế và trong nước. Qua đó, nghiên cứu để đưa ra nhận định, đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống XHTD khách hàng doanh nghiệp của NH TMCP công thương Đống Đa.
Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử trong nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp phân tích, dự báo, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, diễn dịch và qui nạp... để xử lý các dữ liệu. Sử dụng các bảng biểu, biểu đồ, sơ đồ để tăng thêm tính thuyết phục.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Khóa luận trình bày sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống XHTD khách hàng doanh nghiệp tại NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa. Đề tài nghiên cứu tập trung vào phương pháp tính điểm và xếp hạng, đưa ra các các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị RRTD tại NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa.
Xây dựng thành công hệ thống đánh giá, XHTD đối với khách hàng không chỉ giúp NHTM phân loại nợ trung thực hơn, mà còn là công cụ tư vấn, giúp các nhà quản trị NHTM có định hướng chiến lược kinh doanh rõ ràng, áp dụng phù hợp cho nhóm đối tượng khách hàng DNVV.
6. Bố cục khóa luận
Chương 1: Tín dụng ngân hàng và hoạt động xếp hạng tín dụng tại các NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động xếp hạng tín dụng tại NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động XHTD tại NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa
Chương 1
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG XẾP HẠNG
TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM
1.1. TÍN DỤNG VÀ AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM
1.1.1. Hoạt động tín dụng tại các NHTM
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng
Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Vì vậy tùy theo góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Nhưng chung quy lại, có thể hiểu:
Tín dụng nói chung được định nghĩa là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức giá trị hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Nếu xem xét ở một góc độ hẹp hơn, “Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa NH và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó, NH chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho NH khi đến hạn thanh toán”.
Ngày nay, TD không chỉ đơn thuần là việc chuyển giao quyền sử dụng vốn bằng hình thái tiền tệ, hình thái tài sản tài chính (leasing) mà còn sử dụng cả uy tín của NH (hình thức bảo lãnh - tín dụng chữ ký) để cung cấp cho khách những dịch vụ tốt nhất như chiết khấu, bao thanh toán, thấu chi, cho vay theo hạn mức, vay trung dài hạn, đầu tư dự án.
1.1.1.2. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng
- TDNH thúc đẩy sự ra đời, tồn tại và phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh
TDNH là công cụ tài trợ nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn kịp thời về sản xuất tiêu dùng cho các chủ thể trong xã hội đặc biệt là các DN. Vốn là yếu tố tiên quyết giúp các ý tưởng kinh doanh đi vào thực tiễn cũng như mở rộng quy mô hiệu quả hoạt động của các DN. Trong bối cảnh đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay cùng làn sóng hội nhập khiến các DN gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt trong giai đoạn kinh tế phục hồi hiện nay, họ cần vốn để mở rộng quy mô cả về chiều sâu và chiều rộng, đổi mới hiện đại hóa trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực…để nâng cao năng lực cạnh tranh và khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Tuy thị trường tài chính, chứng khoán những năm trở lại đã có những bước tiến đáng kể song vẫn chỉ là bắt đầu mới phát triển như Việt Nam, chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình là nơi giúp các DN tăng vốn, cùng với các điều khoản chặt chẽ để có thể phát hành chứng khoán khiến cho việc huy động vốn trực tiếp thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu chưa phổ biến thì TDNH vẫn luôn là nguồn vốn đặc biệt quan trọng đối với DN. Nhất là đối với các DN vừa và nhỏ - loại hình quy mô DN phổ biến tại Việt Nam hiện nay.
- TDNH là một trong các đòn bẩy kích thích DN và NH hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn.
NH vừa là người “đi vay”, vừa là người “cho vay” nên bản thân NH trong quá trình kinh doanh phải tính toán đến hiệu quả kinh doanh sao cho bản thân NH có lời, đồng thời hoàn trả được gốc và lãi cho người gửi tiền. Mặt khác, khi cho các chủ thể vay vốn, NH cũng phải tính toán đến hiệu quả kinh tế sao cho bản thân họ có lời và hoàn trả vốn gốc và lãi vay cho NH. Như vậy TDNH có tác dụng tăng cường chế độ hạch toán kinh tế không chỉ đối với các NHTM, mà cả với các DN đi vay.
- TDNH là kênh truyền tải tác động nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách tiền tệ vĩ mô trong từng thời kỳ
Thông qua việc cấp tín dụng cho các chủ thể trong xã hội, TDNH đã góp phần điều hòa sự lưu thông của tiền tệ. Nhờ việc điều chỉnh các điều kiện TD như về lãi suất, hạn mức, thời hạn, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh…mà TDNH đã có tác động giúp thực hiện các mục tiêu vĩ mô của quốc gia trong từng thời kỳ theo sự điều tiết của Nhà nước. Cụ thể, khi các NHTM mở rộng TD cấp vốn ra thị trường, sẽ tạo điều kiện tốt cho các DN tiếp cận nguồn vốn rẻ để tăng cường sản xuất kinh doanh. Từ đó đóng góp chung vào sức tăng trưởng GDP của cả nước, ổn định giá cả, tạo thêm công ăn việc làm và ổn định xã hội. Hoạt động TD cũng có vai trò trong việc tác động đến hoạt động huy động các nguồn lực, hình thành và biến nguồn vốn thành đầu tư, tăng trưởng kinh tế và tạo các bước nhảy vọt về công nghệ.
NHTM cấp TD cho các DN trên cơ sở nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động, có nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi dưới các hình thức cho vay ứng trước, chiết khấu, bảo lãnh...và nó mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho NH. Nhưng rủi ro TD thường xảy ra, luôn đe doạ sự tồn tại của NH.
1.1.2. An toàn trong hoạt động tín dụng tại các NHTM
1.1.2.1. Rủi ro tín dụng, nguyên nhân và những hậu quả
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng luôn phải đối đầu với rất nhiều rủi ro, đó là: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất. Rủi ro và lợi nhuận là hai mặt đối lập nhau trong một thể thống nhất của quá trình kinh doanh, chúng luôn tồn tại và mâu thuẫn. Rủi ro luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động của ngân hàng.
Ở Việt Nam, loại rủi ro phổ biến nhất và gây ra thiệt hại lớn nhất cho các ngân hàng, chính là rủi ro tín dụng. Đó là rủi ro về sự tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ việc người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán, từ đó làm giảm vốn tự có của ngân hàng và làm giảm sức mạnh tài chính các ngân hàng.
RRTD là hiện tượng NH không thu hồi được đầy đủ, đúng hạn hoặc mất khả năng thu hồi các khoản vay đã ghi trong hợp đồng TD, dẫn đến toàn bộ hoặc một phần gốc và lãi vay bị tổn thất. Căn cứ vào khoản 1, điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động NH của TCTD ban hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN: ”RRTD trong hoạt động NH của các TCTD là khả năng xảy ra rủi ro trong hoạt động của NH của TCTD do KH không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Sơ đồ 1.1: Biểu hiện và hậu quả của rủi ro tín dụng
RỦI RO TÍN DỤNG
Không thu được vốn đúng hạn
Không thu được lãi đúng hạn
Không thu đủ vốn cho vay
Phát sinh nợ quá hạn
Không thu đủ lãi
Khả năng thanh toán suy giảm
Hiệu quả kinh doanh giảm
Thất thoát vốn, phá sản
Phát sinh nợ khó đòi
Phát sinh lãi treo
Phát sinh lãi treo đóng băng
RRTD là hệ quả của rất nhiều yếu tố, được quy về hai nguyên nhân chính, đó là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nhóm nguyên nhân khách quan là tác nhân gây ra rủi RRTD bất khả kháng, xảy ra ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con người trong một thời điểm nào đó, như:
Tình hình chính trị và hệ thống pháp luật không ổn định: Việc chính trị bất ổn, hay hệ thống pháp luật chồng chéo, chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở sẽ dẫn tới việc các chủ thể kinh tế không an tâm trong kinh doanh, không thích nghi được với sự thay đổi, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, đến khả năng trả nợ ngân hàng.
Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế thay đổi: Đó là sự thay đổi của chu kì kinh tế, lạm phát, hội nhập kinh tế quốc tế…RRTD thường xảy ra khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, khi đó lạm phát tăng cao kéo theo sự thất nghiệp và sự thắt chặt trong chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương sẽ ngày càng làm cho chủ thể kinh tế hoạt động kém hiệu quả, lợi nhuận suy giảm nên việc thanh toán nợ gặp khó khăn.
Các yếu tố xã hội gắn với mỗi vùng: dân số, tâm lý, thói quen tiêu dùng, tập quán, trình độ văn hóa ... nếu không được NH quan tâm đúng mức, sẽ gây ra việc không phù hợp giữa sản phẩm tín dụng với thói quen của khách hàng, từ đó là nguyên nhân của rủi ro đạo đức, rủi ro tín dụng.
Sự lạc hậu về công nghệ thông tin: Việc NH không theo kịp đà phát triển của công nghệ, như việc ứng dụng các phần mềm chuyên ngành, dịch vụ thẻ… cũng sẽ gây ra RRTD cho NH.
Nhóm nguyên nhân chủ quan, bao gồm nguyên nhân từ phía người vay và bản thân ngân hàng.
Thứ nhất, nguyên nhân từ phía ngân hàng
Trước hết, phải nói đến việc NH còn thiếu một chính sách TD nhất quán, chính sách TD ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho vay, chế độ TD ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về đảm bảo tiền vay, danh mục lựa chọn KH trong từng giai đoạn… Nguyên nhân gây ra RRTD từ phía NH có thể khái quát như sau:
- NH không có đủ thông tin về các số liệu thống kê để phân tích và đánh giá KH… dẫn đến đánh giá sai hiệu quả của phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của NH.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn vay sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm… coi đó là vật bảo đảm chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng hoặc theo kế hoạch mà sao nhãng việc coi trọng chất lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh của KH.
- NH không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán, từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu KH có nhu cầu rút vốn quá nhiều; hoặc dữ trữ vốn quá nhiều gây ứ đọng, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định.
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số CBTD NH chưa đủ tầm và vấn đề quản lý sử dụng và đãi ngộ cán bộ NH chưa thỏa đáng.
- Cạnh tranh giữa các TCTD chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏ qua các điều kiện, tiêu chuẩn trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng các khoản vay.
Thứ hai, nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trả nợ vay
Đa số các DN khi vay vốn NH đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng DN cố tình sử dụng vốn sai mục đích, lừa đảo NH không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín cán bộ, ảnh hưởng xấu đến các DN khác.
- Năng lực kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực quá khả năng quản lý.
Khi các DN vay tiền NH để mở rộng quy mô kinh doanh, đa số là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít DN nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà đáng lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
- KH vay vốn tại nhiều TCTD dưới một danh nghĩa hay nhiều danh nghĩa khác nhau nên thiếu sự phân tích một cách tổng thể, khó theo dõi dòng tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.
- Tình hình tài chính của DN yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu cao là đặc điểm chung của phần lớn các DN Việt Nam. Ngoài ra, việc ghi chép một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác các sổ sách kế toán vẫn chưa được các DN tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Vì vậy khi cán bộ NH lập các bản phân tích tài chính của DN dựa trên các số liệu ngày thường thiếu thực tế và xác thực.
Hậu quả của RRTD:
Đối với nền kinh tế:
Hệ thống NH được coi là huyết mạch của nền kinh tế. Mỗi NH là một mắt xích quan trọng trong hệ thống đồng bộ này. Trong lĩnh vực tiền tệ vô cùng nhạy cảm thì rủi ro của NH này sẽ lan truyền sang các NH khác gây ra rủi ro hệ thống. Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng, gây hoang mang cho các khách hàng gửi tiền, từ đó có thể xảy ra hiện tượng rút tiền ồ ạt. Sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Nó sẽ gây ra tình trạng suy thoái, giá cả tăng, sức mua của đồng tiền giảm xuống, gia tăng thất nghiệp, xã hội mất ổn định… Từ các vấn đề trong kinh tế sẽ nảy sinh những tệ nạn xã hội làm giảm sự ổn định và cản trở sự phát triển bền vững.
Đối với ngân hàng:
Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được khoản tín dụng đã cấp và lãi vay, nhưng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động đến hạn. Điều này sẽ làm NH mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn TD giảm làm cho hiệu quả kinh doanh của NH giảm, chi phí tăng lên so với dự kiến. Đến một mức nào đó, NH không đủ vốn để trả cho người gửi tiền, thì sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm, kết quả kinh doanh ngày càng xấu, điều này có thể dẫn NH đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản. RRTD ở một NH xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là NH bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi NH không thu hồi được vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến NH bị thua lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài và không khắc phục được, NH sẽ bị phá sản và gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống NH nói riêng.
Các khoản cho vay không thanh toán đúng hạn là hình thức biểu hiện của RRTD. Chúng được hình thành do hàng loạt các nguyên nhân khác nhau. Hậu quả của RRTD là rất lớn; vì vậy, để hạn chế tối đa các tổn thất, NHTM phải có một chương trình quản trị đồng bộ, từ chính sách quản trị rủi ro các khoản cho vay riêng lẻ và danh mục cho vay đến việc giám sát và xử lý các khoản cho vay đó.
Có thể nói, RRTD là không thể tránh khỏi, nó theo sát quá trình kinh doanh của NH; có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Thông qua tìm ra những nguyên nhân căn bản của RRTD thì việc đưa ra các giải pháp giải quyết đảm bảo an toàn trong hoạt động TD ngày càng trở nên cấp bách.
1.1.2.2. Giải pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng tại hệ thống các NHTM
Các biện pháp thường được sử dụng để nâng cao công tác quản trị RRTD là:
- Đảm bảo thực hiện duy trì những tỷ lệ an toàn mà NHNN đã quy định, như:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu : > 8% Vốn tự có
Giới hạn cho vay, bảo lãnh: <15% vốn tự có
Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn: 30%
- Xác định danh mục các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau. Với các khách hàng khác nhau, đối tượng cho vay khác nhau thì rủi ro và mức độ rủi ro sẽ khác nhau. Nên cần phải phân chia thành các nhóm khách hàng cụ thể như khách hàng cá nhân, doanh nghiệp, NHTM khác, tổ chức trung gian tài chính, tài chính phi ngân hàng, ngân hàng nhà nước với những thời hạn cho vay cụ thể.
- Xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý. Đây là một điều kiện quan trọng hàng đầu để giảm thiểu RRTD trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một chính sách tín dụng phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng mức lãi suất và thời hạn, giới hạn tín dụng, cùng với quá trình giám sát sau khi cho vay. Hơn nữa, cần thiết lập cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tín dụng hợp lý, phân rõ trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong quá trình phân tích và cấp tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro trong từng khâu. Đặc biệt, nhằm giảm thiểu RRTD, quy trình tín dụng cần được xây dựng một cách chi tiết từ khâu tìm hiểu khách hàng, đánh giá, đưa ra hạn mức tín dụng, thời hạn, lãi suất đến khâu giải ngân, kiểm tra giám sát, thu nợ và quán triệt xuống từng chi nhánh, từng cán bộ. Nhất là, quá trình phân tích tín dụng và giám sát tín dụng cần phải được thực hiện chính xác, đầy đủ và chặt chẽ. Và một trong những phương pháp phân tích nhằm ra quyết định cấp tín dụng đang được rất nhiều các NHTM sử dụng, đó là chấm điểm các doanh nghiệp vay vốn (xếp hạng tín dụng) nhằm đánh giá khả năng trả nợ và lãi vay của khách hàng. Phương pháp này sẽ được đề cập trong toàn bộ phần còn lại của khóa luận.
1.2. XẾP HẠNG TÍN DỤNG TẠI HỆ THỐNG CÁC NHTM
1.2.1. Khái niệm xếp hạng tín dụng
Hai khái niệm xếp hạng tín dụng và xếp hạng tín nhiệm đều được dịch ra từ tiếng Anh “credit rating” nhưng chúng không đồng nhất. Để làm rõ khái niệm xếp hạng tín dụng, trước hết ta cần tìm hiểu khái niệm xếp hạng tín nhiệm.
Khái niệm xếp hạng tín nhiệm
Xếp hạng tín nhiệm hay định mức tín nhiệm (credit rating) là thuật ngữ do John Moody đưa ra đầu tiên và công bố vào năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt”. Có rất nhiều cách định nghĩa không giống nhau về thuật ngữ này:
Theo Bohn John A. viết trong cuốn “Phân tích rủi ro trên các thị trường đang chuyển đổi” thì xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suốt thời gian tồn tại của nó.
Theo công ty chứng khoán Merrill Lynch, xếp hạng tín nhiệm là đánh giá hiện thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong hoàn cảnh hướng về tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn. Trong kết quả xếp hạng tín nhiệm chứa đựng cả ý kiến chủ quan của chuyên gia xếp hạng tín nhiệm.
Còn theo Moody’s, xếp hạng tín nhiệm là ý kiến về khả năng và sự sẵn sàng của một nhà phát hành trong việc thanh toán đúng hạn cho một khoản nợ nhất định trong suốt thời gian tồn tại của khoản nợ đó. Nói một cách rộng hơn, xếp hạng một đầu tư bởi một công ty xếp hạng tín nhiệm (CRA) là việc thể hiện ý kiến chuyên gia của bên thứ ba về mức độ rủi ro vỡ nợ gắn liền với thể loại đầu tư đó. Xếp hạng càng cao thì mức độ vỡ nợ càng thấp. Xếp hạng có thể là làm lên hạng hoặc xuống hạng của một nhà phát hành, một công cụ tài chính theo khả năng của nó có đáp ứng được các nghĩa vụ đối với một nhà đầu tư hay không. Về mặt nào đó, xếp hạng tín nhiệm có thể được xem như là một hình thức tư vấn đầu tư chứng khoán, nhưng đó chỉ là ý kiến dựa trên các nhân tố rủi ro và không hoàn toàn là một lời khuyên nên mua hay bán bất kỳ một loại chứng khoán nào. Một sự xếp hạng cao không đồng nghĩa là một khoản đầu tư tối ưu.
Qua những cách định nghĩa trên, ta có thể hình dung: xếp hạng tín nhiệm là việc đánh giá khả năng chi trả đúng hạn của khách hàng đối với một nghĩa vụ nợ trong hiện tại và tương lai.
XHTD và sự phân biệt XHTD với xếp hạng tín nhiệm
Xếp hạng tín dụng là đánh giá hiện thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong hoàn cảnh hướng về tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng có thể thanh toán gốc và lãi khoản vay đúng hạn - (trích tài liệu citibank) - Xếp hạng tín dụng được thực hiện bởi ngân hàng (hoặc các trung tâm thông tin tín dụng…) để đánh giá khả năng trả nợ các khoản vay ngân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110705.doc