Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc biệt. Do tính chất và đặc trưng của ngành, hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái. Điều này luôn là mối đe dọa thường xuyên tới kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM, buộc các NHTM phải đối mặt với nguy cơ giảm mức thu nhập dự kiến hoặc giảm vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Vì vậy, để hoạt động ngân hàng được tiến hành một cách an toàn và hiệu quả thì các NHTM phải làm tốt công tác quản trị rủi ro, kiểm soát và hạn chế được rủi ro nhằm giảm thiểu tổn thất đến mức thấp nhất.
Một trong những rủi ro đặc thù của NHTM là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của NHTM. Nhiều quan điểm cho rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường kinh doanh, có thể phòng ngừa, hạn chế chứ không thể loại trừ. Rủi ro xảy ra không những làm thiệt hại cho ngân hàng mà còn cho cả khách hàng và toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trở thành một yêu cầu bức thiết đối với hệ thống ngân hàng.
Sau một thời gian tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh tại NHNo & PTNT Thanh Trì - Hà Nội, em nhận thấy tầm quan trọng của công tác giám sát và phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh Trì - Hà Nội” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống lại các kiến thức về rủi ro tín dụng và các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Trên cơ sở đó tiến hành xem xét thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh Trì, từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị giúp ngân hàng có thể hạn chế rủi ro tín dụng một cách tốt nhất trong khả năng của mình. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận cơ bản về RRTD trong kinh doanh ngân hàng.
- Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Trì.
- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh Trì.
82 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1194 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Khóa luận Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Trì - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc biệt. Do tính chất và đặc trưng của ngành, hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái... Điều này luôn là mối đe dọa thường xuyên tới kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM, buộc các NHTM phải đối mặt với nguy cơ giảm mức thu nhập dự kiến hoặc giảm vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Vì vậy, để hoạt động ngân hàng được tiến hành một cách an toàn và hiệu quả thì các NHTM phải làm tốt công tác quản trị rủi ro, kiểm soát và hạn chế được rủi ro nhằm giảm thiểu tổn thất đến mức thấp nhất.
Một trong những rủi ro đặc thù của NHTM là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của NHTM. Nhiều quan điểm cho rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường kinh doanh, có thể phòng ngừa, hạn chế chứ không thể loại trừ. Rủi ro xảy ra không những làm thiệt hại cho ngân hàng mà còn cho cả khách hàng và toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trở thành một yêu cầu bức thiết đối với hệ thống ngân hàng.
Sau một thời gian tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh tại NHNo & PTNT Thanh Trì - Hà Nội, em nhận thấy tầm quan trọng của công tác giám sát và phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh Trì - Hà Nội” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống lại các kiến thức về rủi ro tín dụng và các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Trên cơ sở đó tiến hành xem xét thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh Trì, từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị giúp ngân hàng có thể hạn chế rủi ro tín dụng một cách tốt nhất trong khả năng của mình. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận cơ bản về RRTD trong kinh doanh ngân hàng.
- Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Trì.
- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh Trì.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1. Tín dụng ngân hàng, rủi ro và sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng.
1.1.1. Tín dụng ngân hàng.
Trước hết, tín dụng là một phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ vay mượn giữa các chủ thể trong nền kinh tế theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn, có mục đích và bảo đảm tiền vay. Theo nghĩa nguyên thủy, tín dụng (credit) là sự tin tưởng, tín nhiệm mà cho vay mượn các loại vật tư, hàng hóa, tiền tệ. Hiểu theo nghĩa rộng, tín dụng là một loại quan hệ xã hội biểu hiện mối liên hệ kinh tế, trước hết là dựa trên cơ sở niềm tin. Đặc điểm cơ bản của hoạt động tín dụng thể hiện ở sự vận động mang tính hoàn trả của lượng vốn tín dụng, có nghĩa là sau một thời gian cho vay nhất định người đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho vay. Nói cách khác, hoạt động tín dụng chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn mà không làm thay đổi quyền sở hữu vốn của người cho vay. Ngày nay, hoạt động tín dụng không chỉ dựa vào cơ sở niềm tin mà còn được pháp luật bảo vệ nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của các quan hệ tín dụng.
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng và phong phú. Trong đó, tín dụng ngân hàng (TDNH) được xem là hình thức tín dụng cao nhất của nền kinh tế hàng hóa và giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tín dụng. TDNH biểu hiện mối quan hệ bằng tiền và được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi giữa một bên là ngân hàng với một bên là phần còn lại của nền kinh tế. Khái niệm về TDNH ngày càng được mở rộng dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng có thể định nghĩa một cách tổng quát như sau: “Tín dụng ngân hàng là việc tổ chức tín dụng (ngân hàng) sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết kháu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.” (Theo Luật số 20/2004/QH11 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng).
Xét về bản chất, TDNH chính là các quan hệ tín dụng được thực hiện bởi chủ thể là hệ thống các ngân hàng do vậy TDNH mang đầy đủ đặc trưng cơ bản của hoạt động tín dụng. Các quan hệ TDNH được biểu hiện trên bề mặt là sự chuyển nhượng lượng vốn tín dụng qua các giai đoạn như: phân phối, sử dụng và hoàn trả vốn tín dụng. Sự vận động của lượng giá trị vốn tín dụng khi quay về điểm xuất phát luôn phải đảm bảo giá trị và giá trị tăng thêm, dưới hình thức lợi tức, thông qua cơ chế điều tiết lãi suất.
Xét về hoạt động, TDNH là một hoạt động kinh doanh tiền tệ. Trong đó, đối tượng của TDNH là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ đi vay vốn của những người có vốn để cho vay những người cần vốn, được hưởng lợi nhuận, theo sự điều tiết của cơ chế thị trường và được pháp luật bảo vệ. Với các chức năng và vị trí quan trọng của công cụ tiền tệ, TDNH đã trở thành hình thức tín dụng phổ biến nhất trong nền kinh tế.
Trong thực tế, hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng nhưng bất kỳ hình thức tín dụng nào cũng có hai giai đoạn: người cho vay chuyển vốn cho người đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định, và sau khi đến thời hạn do hai bên thỏa thuận người đi vay sẽ trả lại cho người cho vay một khoản giá trị lớn hơn, phần tăng thêm gọi là tiền lãi.
Hoạt động tín dụng ngân hàng có những đặc điểm cần lưu ý như sau:
Thứ nhất, giao dịch tín dụng được thực hiện trên cơ sở tin tưởng giữa hai bên khách hàng và ngân hàng. Trong đó, khách hàng tin tưởng ngân hàng về khả năng cung cấp dịch vụ và thực hiện những cam kết đối với khách hàng còn ngân hàng tin tưởng ở khả năng hoàn trả cũng như tính sẵn lòng hoàn trả của khách hàng. Nghiên cứu lý luận quản trị rủi ro tức là đứng trên góc độ ngân hàng thì đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng vì rủi ro ở đây nằm ở chỗ khách hàng có hoàn trả khoản vay cho ngân hàng hay không, trong đó tính “ sẵn lòng hoàn trả” của khách hàng giữ vai trò quyết định.
Thứ hai, giao dịch được thực hiện trên cơ sở chuyển giao tài sản từ phía ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng cấp tín dụng thực chất là tài trợ vốn cho khách hàng mà vốn là khái niệm mang tính vô hình, do đó nó phải được biểu hiện dưới một hình thái hữu hình nào đó mà ta gọi là tài sản. Tài sản này có thể là tiền, máy móc, thiết bị, hàng hóa,…nhưng chủ yếu là dưới hình thái tiền. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đặc điểm này trong quản trị rủi ro tín dụng nằm ở chỗ rủi ro ở đây nằm trong quá trình lưu chuyển vốn. Cụ thể là vốn được chuyển từ ngân hàng tới tay khách hàng dưới hình thái tiền tệ (là chủ yếu), sau đó tùy theo mục đích sử dụng của mình mà khách hàng tiếp tục chuyển hóa hình thái tiền tệ đó sang các hình thái khác…cuối cùng nó lại quay về hình thái tiền tệ để hoàn trả ngân hàng. Trong dòng lưu chuyển vốn đó, rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ khâu nào và điều cần lưu ý ở đây là rủi ro đó sẽ xảy ra đối với khách hàng trước rồi mới đến ngân hàng. Bởi vậy, để quản trị được rủi ro thì ngân hàng phải kiểm soát khách hàng từ việc khách hàng đã chuyển hóa đồng vốn vay như thế nào.
Thứ ba, giá trị hoàn trả của khách hàng phải lớn hơn giá trị ban đầu. Đến kỳ đáo hạn, khách hàng phải hoàn trả khoản vay cho ngân hàng bao gồm khoản vay gốc và một khoản lãi vay. Khoản lãi vay này dùng để trang trải các chi phí mà ngân hàng bỏ ra (như chi phí huy động vốn, chi phí các hoạt động…) và để ngân hàng có lợi nhuận. Việc tính toán lãi của khoản vay liên quan đến vấn đề lãi suất và rủi ro lãi suất cũng nằm trong hệ thống rủi ro kinh doanh mà ngân hàng phải đối mặt, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này thì rủi ro lãi suất sẽ không được đề cập đến.
Thứ tư, khách hàng cam kết sẽ hoàn trả khoản vay cho ngân hàng đúng hạn. Đặc điểm này hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu quản trị rủi ro tín dụng vì những lý do sau: Trước hết, khoản tiền mà ngân hàng cho vay không thuộc sở hữu của ngân hàng vì ngân hàng là một đơn vị trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ trong đó chủ yếu là nhận tiền gửi. Hoạt động kinh doanh tiền gửi này có một quy tắc là khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với bất kỳ thời hạn nào thì ngân hàng không có quyền từ chối nếu khách hàng đó muồn rút tiền trước thời hạn, ngược lại khi ngân hàng cho vay một khách hàng nào đó thì dù có bất kỳ lý do gì cũng không được phép đòi khách hàng đó thanh toán nếu chưa đến hạn. Bởi vậy, việc các khoản vay được thanh toán đúng hạn có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo khả nảng thanh khoản của ngân hàng.
1.1.2. Rủi ro tín dụng và sự cần thiết phải quản trị rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng.
1.1.2.1. Khái niệm, các hình thức và phân loại rủi ro tín dụng:
Trước hết, ta tìm hiểu khái niệm thế nào là rủi ro. Nhiều nhà kinh tế học đã định nghĩa “rủi ro” theo các cách khác nhau. Frank Knight, một học giả người Mỹ đầu thế kỷ 20 định nghĩa “rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”. Alain Willet cho rằng “rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến biến cố không mong đợi”. Còn Irving Perfer lại nói “rủi ro là tổng hợp của những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác suất”. Như vậy, các định nghĩa tuy có khác nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm coi rủi ro là sự bất trắc không mong đợi, gây ra thiệt hại và có thể đo lường được.
Có thể nói trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng tiềm ẩn những rủi ro. Kinh doanh ngân hàng cũng không phải là ngoại lệ. Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội,…Từ đó cũng gây ra những thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. Hơn nữa, ngân hàng kinh doanh không những chỉ huy động vốn và cho vay mà còn nhiều lĩnh vực khác như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ… Vì vậy mà rủi ro ngân hàng rất đa dạng, bao gồm:
Rủi ro tín dụng
Rủi ro lãi suất
Rủi ro thanh khoản
Rủi ro hối đoái
Rủi ro thiếu vốn khả dụng
Rủi ro trong tín dụng quốc tế
Các rủi ro khác.
Trong số các loại rủi ro kể trên thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất do tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu và đồng thời là nghiệp vụ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao nhất của ngân hàng. Thông thường, đối với các ngân hàng trên thế giới, hoạt động tín dụng đầu tư mang lại 2/3 thu nhập của ngân hàng, còn ở Việt Nam là 90% thu nhập của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa, ngay cả những hoạt động phi sản xuất cũng không thể thiếu sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Chính vì tín dụng ngân hàng tham gia vào mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi lĩnh vực của nền kinh tế, mà mỗi ngành mỗi lĩnh vực kinh doanh lại có tính đặc thù, có sự phức tạp riêng, có những rủi ro riêng nên RRTD của ngân hàng mang tính tổng hợp và khả năng xuất hiện là lớn hơn các ngành khác.
Rủi ro tín dụng có nhiều cách định nghĩa, trong đó theo Điều 2 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì rủi ro tín dụng “là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Như vậy rủi ro tín dụng (RRTD) phát sinh khi một hoặc các bên trong hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính thực hiện nghiệp vụ vay tiền của người này để cho người khác vay. Như vậy rủi ro tín dụng đối với ngân hàng xuất phát từ cả hai phía là người cho vay (chủ nợ của ngân hàng) và người đi vay (con nợ của ngân hàng). Trường hợp thứ nhất là người gửi tiền (người cho ngân hàng vay) muốn rút tiền mà ngân hàng lại không thanh toán được, thực ra bản chất đấy là rủi ro thanh khoản nhưng nó lại liên quan mật thiết đến trường hợp thứ hai là ngân hàng không thu được đầy đủ các khoản cho vay bao gồm cả khoản gốc và lãi, hoặc việc thanh toán các khoản nợ (gồm gốc và lãi vay) không đúng hạn. Điều này xảy ra khi khách hàng vay tiền của ngân hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ. Như vậy có thể nói, khi các NHTM thực hiện kinh doanh nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng không chỉ chịu rủi ro trong việc lựa chọn khách hàng mà còn chịu rủi ro của khách hàng.
RRTD xuất hiện dưới nhiều hình thức, thể hiện qua biểu sau:
Rủi ro tín dụng
Không thu được lãi đúng hạn
Không thu được vốn đúng hạn
Không thu đủ lãi
Không thu đủ vốn (mất vốn)
- Nợ không có khả năng thu hồi
- Xóa nợ
- Lãi treo đóng băng
- Miễn giảm lãi
Nợ quá hạn phát sinh
Lãi treo phát sinh
Từ biểu trên ta có thể thấy, tùy từng trường hợp mà ngân hàng hạch toán vào các khoản mục theo dõi khác nhau như lãi treo hay nợ quá hạn. Khi không thu được lãi đúng hạn, nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ đưa vào mục lãi treo phát sinh. Nếu ngân hàng không thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản mục lãi treo đóng băng, trừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lãi đó cho doanh nghiệp. Còn khi không thu được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có khoản nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên, khoản này vẫn chưa thể coi là khoản mất mát hoàn toàn của ngân hàng vì có thể vì lý do nào đó doanh nghiệp chậm trả nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết trong hợp đồng. Nếu như khoản này ngân hàng không thể thu hồi được (chẳng hạn do doanh nghiệp phá sản) thì lúc này ngân hàng coi như gặp RRTD ở mức độ cao vì đã phát sinh khoản nợ không có khả năng thu hồi, trừ những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp vay vốn hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về xóa nợ thì ngân hàng có thể xem xét để xóa nợ cho doanh nghiệp.
RRTD tồn tại dưới nhiều hình thức, các hình thức đó luôn chuyển biến cho nhau, mà mức độ cuối cùng là nợ không có khả năng thu hồi. Khi nghiên cứu về RRTD, người ta thường chú trọng vào các nguy cơ xảy ra rủi ro như lãi treo và đặc biệt là nợ phát sinh, còn lãi treo đóng băng và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi được coi là các tình huống rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học.
Có nhiều cách phân loại RRTD:
* Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, RRTD được chia thành:
- Rủi ro giao dịch: là hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được chia thành hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế, từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, một lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
* Căn cứ vào tính chất:
- Rủi ro mất vốn: Ngân hàng không thu được các khoản nợ gốc và lãi của khoản vay do người đi vay cố ý không trả nợ hoặc mất khả năng trả nợ.
- Rủi ro đọng vốn: do khách hàng sử dụng vốn không hiệu quả hoặc gặp phải rủi ro nên không thể thanh toán khoản nợ đúng hạn.
1.1.2.2. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
* Nguyên nhân khách quan:
- Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới.
Bởi lẽ nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp cho nên nguồn vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
- Sự tấn công của hàng nhập lậu: Với hàng trăm kilomet biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức tạp cùng với tình hình nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng nhập lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm qua mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này.
- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương trong triển khai.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng, năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu,…
- Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
* Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
Những TCTD được quản lý tốt thường thực hiện phân tích các khoản cho vay đã gây tổn thất cho ngân hàng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm. Đề phân tích chính xác nguyên nhân gây ra tổn thất, TCTD phải thu thập đầy đủ thông tin về chính sách cho vay, chứng từ cho vay, cán bộ tín dụng giải quyết hồ sơ, tình hình biến động của khách hàng, quá trình kiểm tra giám sát vốn vay,… Sau đây là những trường hợp sai sót trong quy trình cấp tín dụng có thể gây ra rủi ro:
- Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và đánh giá khách hàng,.. dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của khách hàng.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Rủi ro do sự cạnh tranh giữa các TCTD chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay.
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ tầm và vấn đề quản lý, sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng.
- Về cơ chế, chính sách và bản thân ngân hàng: thiếu chính sách cho vay, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng, việc cấp tín dụng quá tập trung, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, khoa học.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng:
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiểu. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
- Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý.
- Khách hàng vay vốn tại nhiều TCTD dưới một danh nghĩa hay nhiều thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thế, khó theo dõi được dòng tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Do đó khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực.
- Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước, nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng thua lỗ thì nhà nước chịu.
- Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng.
* Nguyên nhân từ tài sản bảo đảm:
- Do giá cả biến động.
- Do khó định giá.
- Tính khả mại thấp.
- Có tranh chấp về pháp lý...
Các yếu tố trên vừa có tính độc lập tương đối, vừa quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau, có thể gây ra những tổn thất, thậm chí rất lớn, dẫn tới phá sản của một hoặc một số NHTM, làm ảnh hưởng tới cả hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, trong rủi ro tiềm ẩn cơ hội, nếu có thể quản lý, kiểm soát tốt rủi ro thì có thể biến rủi ro thành cơ hội phát triển, hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.1.2.3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng:
* Ảnh hưởng của RRTD đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào đó, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm không những trong thị trường nội địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ, hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
* Ảnh hưởng của RRTD đến nền kinh tế xã hội:
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi RRTD xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
Khi một ngân hàng gặp phải RRTD hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang, lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn.
Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
Ngoài ra, RRTD cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay, nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên RRTD tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan.
Tóm lại, RRTD của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi ngân hàng không thu được vốn, lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ hoặc mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.1.2.4. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng:
* Nợ quá hạn: là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi đúng hạn do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.
Nợ quá hạn có nhiều loại, tuy nhiên, nếu dựa vào khả năng thu hồi thì ta có thể chia nợ quá hạn thành 2 loại như sau:
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ đến hạn thanh toán, vì nhiều lý do khác nhau khách hàng chưa có khả năng thanh toán, nhưng các phân tích chủ quan của ngân hàng cho thấy có thể thu hồi được nợ.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là nợ quá hạn không thể thu hồi sau khi phân tích các khả năng thu hồi. Trong trường hợp này các ngân hàng được phép trích lập quỹ dự trữ đặc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110618.doc