Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng của Người bao quát nhiều lĩnh vực, là ngọn đèn pha soi đường cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. Trong đó có lĩnh vực giáo dục. Việt Nam tiến hành quá trình đổi mới đất nước được hơn 20 năm (từ năm 1986) và đã đạt được những thành tựu rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong đó có sự đóng góp lớn của giáo dục và đào tạo. Đặc biệt hiện nay đất nước vẫn đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp thì việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là một nhu cầu cao của xã hội vì tương lai của một đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới hiện nay là một tất yếu khách quan, với quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước coi giáo dục là quốc sách hàng đầu và coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hóa, mà tập trung là đào tạo con người phát triển toàn diện, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Ngành giáo dục - đào tạo ở nước ta đã và đang có nhiều cố gắng, đạt được những thành tích đáng khích lệ. Song giáo dục - đào tạo cũng bộc lộ nhiều tồn tại yếu kém và bất cập trước những yêu cầu phát triển cao của đất nước.
Vì vậy, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược "trồng người" nhằm soi sáng cho việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách, mục tiêu, biện pháp đối với công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay càng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và mang tính thời sự nóng hổi, đặc biệt là việc xây dựng con người mới ngày càng trở nên cấp thiết Vì lý do trên, tôi chọn vấn đề "Chiến lược "trồng người" trong công tác giáo dục - đào tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
45 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1150 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Khóa luận Chiến lược "trồng người" trong công tác giáo dục - Đào tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng của Người bao quát nhiều lĩnh vực, là ngọn đèn pha soi đường cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. Trong đó có lĩnh vực giáo dục. Việt Nam tiến hành quá trình đổi mới đất nước được hơn 20 năm (từ năm 1986) và đã đạt được những thành tựu rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong đó có sự đóng góp lớn của giáo dục và đào tạo. Đặc biệt hiện nay đất nước vẫn đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp thì việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là một nhu cầu cao của xã hội… vì tương lai của một đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới hiện nay là một tất yếu khách quan, với quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước coi giáo dục là quốc sách hàng đầu và coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hóa, mà tập trung là đào tạo con người phát triển toàn diện, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Ngành giáo dục - đào tạo ở nước ta đã và đang có nhiều cố gắng, đạt được những thành tích đáng khích lệ. Song giáo dục - đào tạo cũng bộc lộ nhiều tồn tại yếu kém và bất cập trước những yêu cầu phát triển cao của đất nước.
Vì vậy, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược "trồng người" nhằm soi sáng cho việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách, mục tiêu, biện pháp…đối với công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay càng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và mang tính thời sự nóng hổi, đặc biệt là việc xây dựng con người mới ngày càng trở nên cấp thiết… Vì lý do trên, tôi chọn vấn đề "Chiến lược "trồng người" trong công tác giáo dục - đào tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều bài viết, chương trình nghiên cứu tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Trước hết, là những công trình sưu tập có tính chuyên đề, những bài nói, viết của Hồ Chí Minh về giáo dục, như: Hồ Chí Minh - Bàn về giáo dục, Nxb sự thật, Hà Nội, 1975; Hồ Chí Minh - Giáo dục thiếu nhi về chủ nghĩa cộng sản, Hà Nội, 1970; Hồ Chí Minh - Nhiệm vụ của cô giáo, thầy giáo rất quan trọng và vẻ vang, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1969; Những lời Bác Hồ dạy thanh thiếu niên và học sinh, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1993; Hồ Chí Minh bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1962; Hồ Chí Minh - Về giáo dục thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1980… Từ năm 1990 đến nay, trong công cuộc đổi mới, trước những yêu cầu bức xúc của giáo dục và đào tạo, nhiều nguy cơ ở giáo dục đào tạo, nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và khai thác di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục về giáo dục đào tạo. Nhiều bài viết, công trình nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh cũng ra đời. Tiêu biểu có: Bác Hồ với giáo dục - tuyển tập báo cáo khoa học, thực tiễn giáo dục dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh - Trường Cán bộ quản lý Giáo dục, Hà Nội, 1990; Bác Hồ - nhà giáo dục lớn của dân tộc, nhiều tác giả, Thành phố Hồ Chí Minh, 1990; Hồ Chí Minh nhà giáo dục vĩ đại, Nguyễn Lân, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990; Hồ Chí Minh với vấn đề dân chủ hóa nền giáo dục, Phạm Tất Dong, Tạp chí Dân vận, số 1, 1996; Làm công tác giáo dục dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Huy Giáp (tuyển tập), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998. Một số công trình khác như: Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI của Phạm Minh Hạc, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, cũng có ít nhiều đề cập đến tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn một số tiểu luận tốt nghiệp của học viên khóa 1, khóa 2 lớp đào tạo giảng viên tư tưởng Hồ Chí Minh của Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng cũng đi vào nghiên cứu đề tài.
Nhìn chung, ở những khía cạnh khác nhau, các công trình trên đã gợi mở hoặc đi vào nghiên cứu các mặt, các vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, cũng có những công trình tiếp cận hệ thống song còn chưa rõ ràng, cần làm rõ hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài luận văn này, người viết xin được trình bày rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và sự vận dụng của Đảng và Nhà nước vào chiến lược "trồng người" trong công tác giáo dục và đào tạo… Đó như là sự bày tỏ tấm lòng ngưỡng mộ cũng như những trăn trở, suy tư, mong đợi trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình và phát triển. Đảng ta đã biết vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, kết hợp và tiếp thu tri thức của nhân loại để hình thành hệ thống lý luận về định hướng phát triển đất nước và xây dựng con người mới. Đặc biệt lấy giáo dục và đào tạo là yếu tố cơ bản, coi là khâu đột phá, trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, trong khi nguồn tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp.
4. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của đề tài tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa tinh hoa tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, sự vận dụng của Đảng về chiến lược "trồng người" trong thời kỳ mới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng Mác - Lênin để xem xét và bàn luận các vấn đề. Đây là phương pháp chủ yếu và tầm quan trọng nhất trong các phương pháp thực hiện đề tài.
Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp logíc kết hợp với lịch sử để làm sáng tỏ vấn đề và khái quát thành những quan điểm tư tưởng.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược "Trồng người"
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong lòng một dân tộc giàu truyền thống nhân ái. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người những gì mà con người vốn có, trước hết là quyền được sống, theo nghĩa "người ta sinh ra ai cũng có quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc". Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên tài C. Mác, Ph. Ăngghen và V.L Lênin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người không màng danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc cá nhân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách mạng Việt Nam và giải phóng dân tộc, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đó được kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Để thực hiện tư tưởng nhân văn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội". Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy, ham muốn tột bậc của Người là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do" [19, tr. 161]. Độc lập tự do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh, cống hiến của Người. Bởi đó là điều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vô cùng rộng lớn, trong đó có tư tưởng về giáo dục và đào tạo nằm trong nội dung tư tưởng nay của Người. Hồ Chí Minh chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục. Người từng nói: chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hóa nhân dân ta bằng những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô. Cho nên phải làm sao để dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc năm châu". Lấy sức của con người để giải phóng cho con người, vì con người và phục vụ con người.
1.1. Khái niệm "con người" trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Có thể nói, tất cả các anh hùng, vĩ nhân của dân tộc thì Hồ Chí Minh là một trong người đã kế thừa, phát huy và kết hợp nhuần nhuyễn nhất truyền thống đạo đức và tinh hoa văn hóa nhân loại và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Sự thống nhất giữa người cách mạng và nhân đạo trong nhân cách, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã xuất hiện từ rất sớm, mà một trong những biểu hiện tiêu biểu, bao quát, xuyên suốt cuộc đời và sự nghiệp cao cả của Hồ Chí Minh là tư tưởng về con người và chiến lược "trồng người".
Theo Hồ Chí Minh, "chữ người nghĩa là gia đình, anh em, họ hàng bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loại người" [20. tr. 17]. Điểm vượt trội trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ không có con người trừu tượng. Bao giờ Người cũng nói đến con người cụ thể. Con người ở bất cứ đâu và bao giờ cũng vậy, nó không tồn tại ở một hình diện, một chiều, mà ở nhiều bình diện, nhiều chiều, bởi vì được đặt vào những mối quan hệ khác nhau.
Về quan hệ: Đó là quan hệ vũ trụ - tự nhiên, với tộc loài, với cộng động, với nhóm xã hội và với chính bản thân mình.
Về vị trí: Đó là vị trí chủ động hay thụ động, quản lý hay bị quản lý, chủ thể hay khách thể.
Ngoài ra còn những quan hệ vô cùng quan trọng khác như: Giữ được mình (tính độc lập, tự chủ) hay đánh mất mình (tha hóa). Bản chất mỗi con người cùng như mỗi quan hệ riêng và từ vị trí riêng của mình mà có những cách nhìn nhận, cảm nhận khác nhau.
Có thể nói, khái niệm "con người" tựa hồ như đã mở ra và khép lại quá trình tư duy và hoạt động của Hồ Chí Minh. Suốt quá trình ấy, vấn đề giải phóng dân tộc, đem lại tư do, hạnh phúc cho con người và xây dựng, rèn luyện con người bao giờ cũng trung tâm của tư duy, mục tiêu của mọi hoạt động yêu nước và cách mạng của Hồ Chí Minh. Con người - tự do và hạnh phúc của con người, đó là mục tiêu cao nhất và thường xuyên và vì nó Hồ Chí Minh đã cống hiến toàn bộ cuộc đời của Người: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [19, tr. 161].
Khác với các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng và Phan Bội Châu, tình thương người của Hồ Chí Minh không chỉ dừng ở mức đồng cảm xót thương với con người một cách thụ động, cũng không phải là tỏ mối thông cảm từ trên và từ ngoài, không phải là lòng thương hại của người người đứng trên nhìn xuống, không phải là tiếng kêu "thương thay cũng một kiếp người" oán than cho số phận con người bị chà đạp và cũng không phải là lòng từ bi bác ái mơ hồ không vượt qua được, lòng yêu dân yêu nước chung chung... mà đó là lòng nhân ái tích cực với một niềm thông cảm sâu sắc, "thương người như thể thương thân" trước tình cảnh nước mất, nhà tan của người dân thuộc địa; đó là tinh thần đấu tranh quyết liệt vào kẻ xâm lược tàn bạo, dã man đã hủy diệt cuộc sống, chà đạp lên phẩm giá con người.
Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của người, luôn quan tâm tạo mọi điều kiện để con người phát huy mặt tốt và sửa chữa mặt xấu.
Người kịch liệt phản đối việc hạ nhục con người, mà rất trân trọng, nâng lưu, khuyết khích mặt tốt, mặt thiện của con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng" [25, tr. 666].
Hồ Chí Minh là cả một tình thương mênh mông. Trong tình yêu đó có chỗ cho mọi người, không quên sót một ai. Lòng nhân ái và tình người của Hồ Chí Minh sâu thẳm như biển cả, thực như hạt gạo, hạt muối. Hồ Chí Minh vĩ đại và cao cả nhưng lại rất đối bình dị, thân thương. Cả cuộc đời của Người trong sáng, giản dị và hòa nhập, không chút mảy may màng danh lợi cho bản thân. Sự bình dị, khiêm tốn của Người làm cho biết bao người nước ngoài ngạc nhiên, coi như thần thoại: Thủ tướng Indira Gandi - Một lãnh tụ nổi tiếng của ấn Độ đã viết: "Đức độ, tính giản dị, tình yêu nhân loại, sự tận tụy hy sinh và dũng cảm của Hồ Chí Minh sẽ cổ vũ cho thế hệ mai sau".
Hồ Chí Minh xem xét con người trong mối quan hệ xã hội - lịch sử cụ thể: Nhân ái, bao la, tin tưởng vững chắc, khoan dung rộng lớn đối với con người, tất cả vì con người và do con người, thực hiện giải phóng con người từ giải phóng dân tộc. Con người vừa là mục tiêu phục vụ, vừa là động lực cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin được vận dụng một cách sáng tạo và tiếp nối chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới... Đó là đặc trưng, bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh về "con người". Như một tờ báo Mỹ viết: "Hồ Chí Minh đã sống một cuộc đời với những tầm cỡ phi thường và đã có những cống hiến sâu sắc cho sự nghiệp giải phóng loài người. Chính vì lẽ đó đã làm cho tiểu sử của Người trở thành bài ca cho niềm vinh quang đối với triển vọng và khả năng của con người".
Hồ Chí Minh đã không còn nữa, nhưng những gì Người để lại cho thế hệ chúng ta hôm nay trước hết là tinh thần yêu thương con người, đấu tranh vì tự do, hạnh phúc của con người - Những con người bị áp bức, bóc lột của dân tộc mình và của các dân tộc khác trên thế giới. Người xứng đáng được tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) tôn vinh danh hiệu cao quý "Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam là nhà văn hóa kiệt xuất".
Phát triển kinh tế - xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: Nhân lực (nguồn lực con người), vật lực (nguồn lực vật chất), tài lực (nguồn lực về tài chính, tiền tệ)... Song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Ngay cả trong điều kiện đạt được tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người bởi lẽ: Chính con người tạo ra những máy móc thiết bị hiện đại đó. Điều đó thể hiện mức độ hiểu biết và chế ngự tự nhiên của con người. Ngay cả đối với máy móc, thiết bị hiện đại, nếu thiếu sự điều khiển, kiểm tra của con người thì chúng chỉ là vật chất. Chỉ có sự tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào hoạt động. Vì vậy, nếu xem xét nguồn lực là tổng thể những năng lực của con người được huy động vào quá trình sản xuất, thì năng lực đó là nội lực của con người. Trong phạm vi xã hội, đó là một trong những nguồn nội lực quan trọng cho sự phát triển. Đặc biệt đối với nước ta, dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào đã trở thành một nguồn nội lực quan trọng nhất. Nếu biết khai thác nó sẽ tạo thành một động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp hơn, xã hội ngày càng văn minh. Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội, nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng.
Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển, thể hiện mức độ chế ngự tự nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho con người, mà còn tạo ra những điều kiện hoàn thiện bản thân con người.
Lịch sử phát triển loài người đã chứng minh rằng, trải qua quá trình lao động hàng triệu năm loài vượn mới trở thành con người ngày nay và trong quá trình đó, mỗi giai đoạn phát triển của con người lại làm tăng thêm sức mạnh chế ngự tự nhiên, tăng thêm động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, động lực, mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát triển tới bản thân con người cũng nằm trong chính bản thân con người. Điều đó lý giải tại sao con người được coi là nhân tố năng động nhất, quyết định nhất của sự phát triển.
Hội nghị lần thứ hai (khóa VIII) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những định hướng chiến lược của Đảng ta về phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ mới. Giáo dục - đào tạo có vai trò quyết định đối với việc hình thành quy mô và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Giáo dục là sự nghiệp chung, Nhà nước chăm lo xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục và ban hành những chính sách phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các doanh nghiệp, mọi tầng lớp nhân dân có trách nhiệm tích cực góp phần vào sự nghiệp phát triển giáo dục, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục... và mọi người được tạo cơ hội tiếp cận với học vấn phổ thông và nghề nghiệp.
Mục tiêu chiến lược của phát triển con người Việt Nam là đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã định hướng cho phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: "Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại" [9].
Giáo dục - đào tạo là cơ sở phát triển nguồn nhân lực, là con đường cơ bản để phát huy nguồn lực con người. Quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu được khẳng định từ nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong quá trình phát triển đất nước, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Giáo dục đại học và kỹ thuật, nghề nghiệp là bộ phận chủ yếu tạo ra nguồn nhân lực trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Con người được giáo dục và biết tự giáo dục được coi là nhân tố quan trọng nhất "vừa là động lực, vừa là mục tiêu" của sự phát triển bền vững. Con người được giáo dục đào tạo tốt mới có khả năng giải quyết một cách sáng tạo và có hiệu quả tất cả những vấn đề mà sự phát triển của xã hội đặt ra.
Tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục đào tạo thể hiện ở vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Một nền kinh tế - xã hội muốn phát triển phải tạo ra được con người có trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và nguồn chất xám cũng như nhân lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao các hoạt động văn hóa, tinh thần. Điều này phụ thuộc vào giáo dục, đáp ứng nhu cầu trình độ nền kinh tế.
Nền giáo dục Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những triển vọng tốt đẹp, ngày càng đáp ứng lòng mong mỏi của mọi tầng lớp nhân dân, tiếp tục đào tạo thế hệ con người Việt Nam có đủ khả năng và tâm huyết, xứng đáng với tất cả những gì do các thế hệ tổ tiên ông cha để lại, giữ gìn nền độc lập dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược "trồng người"
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa "giáo dục"
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu sự nghiệp giáo dục của mình chính là từ thầy giáo Nguyễn Tất Thành, dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết), đến những năm tháng hoạt động ở Pháp với tên gọi Nguyễn ái Quốc, Lý Thụy ở Trung Quốc, Thầu Chín ở Xiêm - Thái Lan, Già Thu ở Pác Bó... và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Qua tất cả những năm tháng đó, Người đã tổ chức và trực tiếp giảng dạy nhiều lớp huấn luyện chính trị, văn hóa, quân sự cho bao lớp cán bộ. Người có công đào tạo nên nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam, những lãnh tụ xuất sắc của Đảng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng giai cấp. Không chỉ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người khai sinh và đặt nền móng cho nền giáo dục mới của Việt Nam. Đó là nền giáo dục mang tính dân tộc, khoa học, dân chủ và đại chúng; bảo đảm cho mọi người đều được đi học, ai cũng được học hành, có quyền bình đẳng về giáo dục; bảo đảm cho sự phát triển toàn diện những năng lực sẵn có của con người.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy giáo dục có vai trò và sức mạnh cực kỳ to lớn. Khi Người rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, hơn 90% dân số Việt Nam không biết chữ, chìm trong kiếp sống nô lệ, lầm than. Những năm tháng bôn ba qua các đại dương tìm đường cứu nước, cứu dân, Người đã tận mắt chứng kiến nhiều điều và học được nhiều điều. Sống ở Pari (thủ đô nước Pháp) nơi được coi là trung tâm văn minh của nhân loại với nền khoa học, kỹ thuật phát triển hàng đầu thế giới vào đầu thế kỷ XX. Người đã nhận thức về tầm quan trọng của trình độ dân trí và sau này (1945) Người tổng kết: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" [34, tr. 8]. Vì thế, Người luôn coi việc đấu tranh chống chính sách " ngu dân" của thực dân Pháp để có một nền giáo dục tự do là một trong những mục tiêu của cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc. Người nói: "Tôi có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước nhà hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [19, tr. 161].
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ngày 3/9/1945) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi nhiệm vụ chống giặc dốt là nhiệm vụ cấp bách số hai trong sáu nhiệm nhiệm cấp bách của Nhà nước lúc bấy giờ. Giặc dốt được coi như một thứ giặc cần tiêu diệt ngang hàng với giặc ngoại xâm. Người coi việc nâng cao dân trí là "một công việc cần phải thực hiện cấp tốc", "để làm cho mọi người Việt Nam, ai cũng đều có kiến thức để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà" [20, tr. 379-380].
Trong những ngày đầu giành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chăm lo đến việc hoàn thiện các thể chế và bộ máy của nền giáo dục mà Người còn đưa ra các phương pháp học mới: Người chưa biết thì phải gắng sức mà học, vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo... để được kết quả trên mặt trật chống giặc dốt. Người đặc biệt quan tâm tới việc học của các tầng lớp nhân dân lao động. Tính nhân văn trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh đã đi vào lòng dân tạo ra một phong trào chống mù chữ cuối năm 1945 đầu 1946.
Khi chúng ta bước vào kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, từ chỗ hơn 90% dân số mù chữ đã có 3 - 4 triệu người biết chữ. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, dù bận lãnh đạo nhân dân kháng chiến và sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm chú ý đến văn hóa và giáo dục. Người kêu gọi mọi người hăng hái học tập "thi đua diệt giặc dốt". Trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh đã kêu gọi "dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt".
Vừa phải chỉ đạo cuộc kháng chiến gay go, ác liệt, đồng thời xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa vững quan điểm của Người về vị trí giáo dục trong sự nghiệp xây dựng đất nước, coi đó là nhân tố quyết định việc thực hiện mục tiêu xây dựng lại đất nước ta "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
Mục đích của nền giáo dục mới phải thực hiện dạy và học theo mục tiêu như Người chỉ rõ: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại" [20, tr. 684]. Vì thế, Hồ Chí Minh chủ trương giáo dục toàn diện: Trong đó đức phải đi đôi với tài, tức là phải coi trọng cả tài và đức, không những phải giàu về tri thức mà phải có đạo đức cách mạng. Học phải gắn liền hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Hồ Chí Minh thường xuyên bồi đắp nền tảng ấy cho con người. Người khẳng định: "Cũng như sông thì có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [20, tr. 253].
Để thực hiện mục đích trên, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp bảo đảm sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục. Phương pháp học tập là vấn đề rất quan trọng. Để đạt đến mục đích ở bất cứ lĩnh vực hoạt động nào của con người cũng phải có phương pháp, cách thức tiến hành hoạt động. Trong học tập, nếu có phương pháp khoa học thì người học sẽ tiếp cận và thu nhận kiến thức một cách hiệu quả. Các phương pháp giáo dục như: Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình nhà trường và xã hội... Theo Hồ Chí Minh, đều nhằm mục đích nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Những phương pháp đó mang tính hệ thống, khoa học, nhưng lại rất cụ thể, thiết thực, luôn gắn với thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt Người nhấn mạnh " Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy"[21, tr. 50]. Bởi vậy, Người luôn căn dặn phải luôn gắn việc dạy học với thực tế từ của cuộc sống, với đời sống của nhân dân; tránh kiểu học vẹt, lối dạy sách vở.
Trong sự nghiệp giáo dục, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến nhiệm vụ có tính chiến lược là vun trồng và bồi dưỡng thế hệ trẻ nhằm kế tục sự nghiệp của cha ông trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 2/9/1945, ngày khai trường năm học đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, gửi thư cho các em học sinh Người đã khẳng định "Non sông Việt Nam có trở lên tươi đẹp hay không, dân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van - chinh thuc2.doc