Khoa học xã hội - Chương 3: Một số tác giả tiêu biểu khác

Nguyễn Thông tên chữ là Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, người huyện Tân

Thạnh, tỉnh Gia Định (nay là Kỳ Sơn, Long An). Thân sinh là nhà nho nghèo

Nguyễn Hanh. Năm 23 tuổi (1849), Nguyễn Thông đỗ cử nhân nhưng vào thi hội

bài thi bị lấm mực không hợp lệ nên bị đánh hỏng. Do nhà nghèo không thể tiếp

tục học Nguyễn Thông nhận chức huấn đạo Phú Phong (An Giang). Năm 1855

chuyển ra Huế làm việc ở nội các, tham gia soạn sách Nhân sự kim giám(Gương

vàng soi việc người).

Pháp đánh thành Gia Định (1859) ông tòng quân tham gia sự nghiệp bảo vệ

đất nước. Thời gian trong quânngũ ông là người giúp việc tích cực cho thống đốc

quân vụ Tôn Thất Hiệp. Ba tỉnh miền Đông mất, ông cùng một số sĩ phu yêu nước

lánh sang miền Tây. Từ 1862-1867 làm đốc học Vĩnh Long. Sau khi lụctỉnh bị cắt

hoàn toàn cho Pháp ông lại cùng dòng người tị địa kéo ra Bình Thuận. Cuối năm

1867 làm án sát Khánh Hòa, 1870 làm biện lý bộ hình, tiếp sau làm bố chánh

Quảng Ngãi. Từ 1873-1875 vì bị bệnh ông xin về Bình Thuận kết bè bạn du ngoạn

các vùng rừng núi. 1876 về kinh làm tư nghiệp Quốc tử giám, cùng một số người

khác khảo duyệt bộKhâm định Việt sử thông giám cương mục. Sau đó soạn bộ Việt

sử cương giám khảo lược. 1877 làm phó sứ điền nông kiêm đốc học Bình Thuận.

Khuyến khích phát triển nghề nông và giáo dụclớp trẻ là hai việc lớn mà ông ra

sức thực hiện trong thời gian cuối đời. Nhìn lại quãng đời làm quan, Nguyễn Thông

đã làm những việc đáng chú ý như sau:

pdf22 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 833 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Khoa học xã hội - Chương 3: Một số tác giả tiêu biểu khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả”(Xuân Diệu). Khung cảnh mùa thu với tất cả đường nét, màu sắc, thanh âm riêng như được nhà thơ vẽ lại: Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cầu trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa đề mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào. Nguyễn Khuyến cảm nhận và diễn tả vẻ đẹp nên thơ của mùa thu làng quê xứ Bắc với tất cả sự trìu mến, nâng niu của tâm hồn, nét bút. Cuộc sống nhà thơ thật sự gắn bó với đồng quê, bởi thế mảng thơ này vừa giản dị lại vừa rất sống động, tạo được nét riêng cho Quế Sơn thi tập. Bài Bạn đến chơi nhà có những câu thơ mang dáng dấp, phong vị ca dao: Ao sâu nước cả khôn chài cá, Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà. Cải chửa ra cây cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn mướp ra hoa. Cảm nhận phong cảnh làng quê như một thi sĩ, Tam Nguyên Yên Đổ còn sống với những nỗi lo đến thắt ruột của con người vùng quê mình trong cảnh lũ lụt: Quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi, Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi. Ông cũng suy nghĩ, đắn đo, tính toán chi li như một người nông dân thực thụ khi mùa màng thất bát: Năm nay cày cấy vẫn chân thua, Chiêm mất đòng chiêm mùa mất mùa. Phần thuế quan Tây phần trả nợ, Nửa công đứa ở nửa thuê bò. Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, Chợ búa trầu cau chẳng dám mua. Tằn tiện thế mà không khá nhỉ? Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho! Nhà thơ còn nói đến cảnh túng thiếu phải vay nợ lãi, bán lúa non, cuộc sống quẩn quanh của những người nông dân nghèo quê ông. Quế Sơn thi tập do đó còn là tập thơ của tình quê, hồn quê của Tam Nguyên Yên Đổ. VẤN ĐỀ ÔN TẬP Th.S Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX - 38 – 1. Tâm tư và tiếng cười trào phúng của Nguyễn Khuyến trong thơ. Đọc thêm: Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục – 1999. [ ] III. Trần Tế Xương (1870-1907) 1. Trần Tế Xương Nhà thơ Trần Tế Xương sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Nho học, nghèo, đông con ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (nay là thành phố Nam Định). Từ thuở nhỏ nhà thơ đã nổi tiếng thông minh, giỏi văn thơ, ứng đối sắc sảo. Năm 15 tuổi, Trần Tế Xương dự kỳ thi hương đầu tiên trong đời nhưng không đậu, hai khoa tiếp theo cũng không thành công. Khoa thi thứ tư trong đời, ông đậu tú tài (24 tuổi), cái tên Tú Xương xuất hiện từ đây và mãi mãi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của ông. Sau lần đậu tú tài, Tú Xương dự tiếp bốn khoa thi nữa nhưng không đậu đạt gì thêm. Dù là một nhà Nho nhưng tính cách riêng cùng môi trường đô thị đã khiến Tú Xương về tính cách cũng như tâm tư, suy nghĩ không hẳn còn giống với các nhà Nho là nhà thơ khác giai đoạn này như: Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thông, Nguyễn Khuyến... Sự nghiệp văn chương của Tú Xương có phần khác những tác gia khác, đó là không có một tập thơ nào do chính tay nhà thơ ghi chép, để lại. Công trình sưu tập thơ Tú Xương có được hiện nay xuất phát từ nhiều nguồn, từ sự ghi chép của những người cùng thời, từ sự ghi chép của những người thân thích, từ gia đình, vợ, con nhà thơ v.v... Toàn bộ thơ Tú Xương sưu tập được cho đến nay là thơ Nôm, với các thể loại: thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, phú, câu đối ... 2. Một số nội dung thơ Tú Xương Với cảm quan trào phúng, Tú Xương đã vẽ nên trong thơ ông cả một xã hội đang nhốn nháo, đua chen, lối sống thực dụng, vị tiền đang hủy hoại mau chóng những chuẩn mực đạo đức. Tiếng cười trào phúng chứa đầy sự xót xa, bi phẫn của ông được cất lên từ chính nỗi đau của tâm hồn ông trước những biến cải của cuộc sống. Nhà Nho trong ông đau đớn trước sự bát nháo, hỗn loạn của xã hội, trước sự băng hoại về đạo lý sống đang gặm nhấm cuộc sống mỗi gia đình. Với Tú Xương, đất Vị Hoàng như đang lâm vào một tấm bi hài kịch lớn, ông ngao ngán, than thở: Th.S Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX - 39 – Có đất nào như đất ấy không? Phố phường tiếp giáp với bờ sông. Nhà kia lỗi phép con khinh bố, Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng. Keo cú người đâu như cứt sắt, Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng. Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh, Có đất nào như đất này không? Con người đất Vị Hoàng quê nhà thơ lúc bấy giờ là như thế: sống thiếu đạo lý, bát nháo, hám tiền, bon chen. Chúng ta có thể hiểu rộng hơn, không riêng ở Nam Định, trong xã hội thực dân nửa phong kiến, sự đổ vỡ của nền tảng đạo đức cũ trước thế lực mới, thế lực đồng tiền, lối sống thực dụng là điều tất yếu. Cuộc sống mới, xã hội mới như phết lên, nặn nên da thịt, diện mạo, tính cách của con người trong một khu phố nọ: Ở phố Hàng Song thật lắm quan, Thành thì đen kịt, Đốc thì lang. Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố, Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn. Đó là những con người bị hoen ố, lấm lem từ diện mạo bên ngoài cho đến nhân cách, đạo đức bên trong. Không khí tấp nập, đua chen, sự say sưa với địa vị, bạc tiền của giới quan lại, tư sản đương thời khiến ông Tú của đất Vị Hoàng thấy mình trở nên lạc lõng, ông không thể hòa nhập được vào xã hội ấy, mặc dù ông lớn tiếng là “ông quyết” Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu, Phen này ông quyết đi buôn cối, Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu. Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang, Đứa thời mua tước đứa mua quan, Phen này ông quyết đi buôn lọng, Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng. Chưa hết, Tú Xương còn trêu ghẹo một anh chồng nhu nhược để vợ chơi nhăng, mỉa mai một viên kí lục hiến vợ cho Tây để dễ bề làm ăn, cười cợt chuyện mẹ vợ tư tình với chàng rể, đùa giỡn một ông Hàn bị vợ dọa bỏ v.v... Sống trong một xã hội thiếu kỷ cương, bát nháo như vậy, nội tâm nhà thơ là cả một tấn bi hài kịch. Con người nhà thơ một mặt đứng trên tất cả mọi sự băng hoại của cuộc sống, đồng thời cũng chịu sự tác động sâu sắc của cuộc sống đó. Không chỉ biết mỉa mai, Th.S Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX - 40 – giễu cợt, khôi hài, Tú Xương còn khóc, còn than, còn vẫy vùng trong bất lực. Ông tâm sự về nỗi lòng của mình khi “xuất khẩu” bài thơ sau: Người bảo ông điên ông chẳng điên, Ông thương, ông tiếc, hóa ông phiền. Kẻ yêu người ghét hay bằng chữ, Đứa trọng thầy khinh chỉ vị tiền. Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch, Được voi tấp tểnh lại đòi tiên. Khi cười, khi khóc, khi than thở, Muốn bỏ văn chương học võ biền. Thơ Tú Xương cho ta thấy ông là một con người sống với tất cả cao độ của niềm yêu ghét, vui buồn, hờn giận trước cuộc sống. Với những bài thơ dường như chỉ là “ứng khẩu”, nhận xét, để trêu đùa, cười cợt trước những điều khác lạ, trái tai gai mắt, Tú Xương đã dựng lại cả diện mạo xã hội một thành phố, một miền quê đang biến động, đổi thay. Nam Định thuộc đất Sơn Nam Hạ cũ là một vùng có truyền thống Hán học. Cùng với trường thi Hà Nội, trường thi Nam Định có một lịch sử lâu đời, là nơi sĩ tử xứ Bắc bao thế hệ tấp nập kéo nhau về thi thố tài năng. Chính vì thế mà hơn đâu hết, cảnh chợ chiều của nền Hán học là phơi bày nơi đây rõ rệt nhất, xót xa, bi hài nhất. Tú Xương là một sĩ tử suốt cuộc đời gắn bó với chuyện học hành, thi cử, ông gần như là nhà thơ duy nhất đã kể, đã tả, đã cảm xúc trước hiện thực này. Tú Xương than cho “đạo học” (Nho học), buồn cho số phận “cái chữ Nho”, xót xa cho sự rệu rã đến thảm hại của Nho phong, sĩ khí ... Từ chỗ được xã hội trọng vọng, được bao thế hệ con người Việt Nam đeo đuổi, kỳ vọng, “đạo học” giờ đây đang lâm vào tình trạng ngắc ngoải. Sự biến đổi nhanh đến chóng mặt của thời thế khiến cho nhà thơ phải ngỡ ngàng, ông than thở: Đạo học ngày nay đã chán rồi, Mười người đi học chín người thôi. Cô hàng bán sách lim dim ngủ, Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi. Sĩ khí rụt rè gà phải cáo, Văn thường liều lĩnh đấm ăn xôi. Nhà thơ không đậu đạt đã khổ mà những người đậu cao thân phận cũng chẳng hơn gì. Có lẽ Tú Xương đã cười buồn khi “xuất khẩu” những dòng thơ: Nào có ra gì cái chữ Nho, Ông nghè ông cống cũng nằm co. Chi bằng đi học làm ông phán, Tối rượu sâm banh sáng sữa bò. Th.S Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX - 41 – Dưới con mắt Tú Xương, cảnh trường thi lúc bấy giờ là cả một tấn bi hài kịch. Từ giọng điệu quan trường đến điệu đi dáng đứng của đám sĩ tử, ông đều thấy toát lên sự nhếch nhác, rệu rã, thiếu sinh khí. Chưa bao giờ sĩ tử nước Nam lại lâm vào tình trạng nhẫn nhục như thời đại Tú Xương. Họ đến trường thi với thân phận nhỏ bé, hèn kém của những người dân mất nước, nô lệ. Nho phong, sĩ khí của họ gần như tàn lụi hết trước sự hào nhoáng, uy nghi của ông Tây bà đầm. Tú Xương đã làm thơ về tất cả những điều đó, và ông đã cười, đã khóc, đã ngậm ngùi trong bài thơ sau: Nhà nước ba năm mở một khoa, Trường Nam thi lẫn với trường Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra. Nhân tài đất Bắc nào ai đó? Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà. Không chỉ “lôi thôi” “rụt rè” mà với địa vị những kẻ mất nước, các vị cử nhân tân khoa trong lễ xướng danh còn phải lom khom, quì lạy ông Tây bà đầm. Cái buồn của kẻ hỏng, cái “sướng” của người đỗ được ông Tú vẽ lại sống động trong bức tranh sau: Một đoàn thằng hỏng đứng mà trông, Nó đỗ khoa này có sướng không? Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt, Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng. Thảm hại đến đau lòng nhưng đồng thời cũng mang tính hài sâu sắc. Cái tài của Tú Xương là đã khái quát được thời đại mình bằng những hình ảnh thật sự cụ thể, sinh động. Việc thi cử thời Tú Xương còn đáng chán vì chủ trì công việc này là những người không đủ tư cách “Sơ khảo khoa này bác cử Nhu, thật là vừa dốt lại vừa ngu”. Tú Xương thấy “gớm” cho sự “hay chữ” của một ông tiến sĩ mới “Nghe văn mà gớm cho ông mãi, Cờ biển vua ban cũng lạ đời”. Những ông cử, ông thú “thi phúc” “đậu lạy” khác cũng khiến nhà thơ phát ngấy mà thốt lên: “Cử nhân cậu ấm Kỷ, Tú tài con đô Mỹ! Thi thế mới là thi! Ơi khỉ ơi là khỉ”... Từ phê phán, cười cợt, chế giễu thiên hạ nhưng đồng thời Tú Xương cũng thể hiện mình, cừơi và buồn cho những đắng cay thất bại của mình. Tú Xương làm nhiều thơ về nỗi đau hỏng thi, ông xót xa, than thở: “Đau quá đòn ghen. Rát hơn lửa bỏng, Hổ bút hổ thiên. Hổ lều hổ chõng. Nghĩ đến chữ nam nhi đắc chí thêm nỗi thẹn thùng...”. Có khi ông lại an ủi, vỗ về mình: “Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng. Nào ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn, thám hoa lỡ ra cũng hỏng”. Có lần hỏng nhưng ông lại tưởng tượng mình đỗ đầu, Th.S Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX - 42 – được ăn yến thịt công, được “Xướng danh tên gọi trên mình tượng”, thú vị nhất là được mấy cô con gái đẹp của ông “cụ xứ” “lăm le xui bố cưới làm chồng”. Có lần thi vừa xong, chưa biết đỗ hay hỏng, ông đã dọa dẫm, dằn dỗi như một đứa trẻ: Mai mà tớ hỏng tớ đi ngay, Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày Học đã sôi cơm nhưng chửa chín, Thi không ăn ớt thế mà cay... Lịch sử tiến thân bằng con đường học vấn của cha ông ta trong lịch sử không phải là ngắn. Biết bao vinh hoa, nước mắt trên chặng đường gian khó, nhọc nhằn này. Hàng gần chục thế kỷ, thực tế không chỉ có một ông Tú Nam Định cay chua, bế tắc vì thất bại nhưng chỉ có ông Tú cuối mùa này là người dám nói và nói thật về nỗi đau đớn của minh. Qua hình ảnh người Nho sĩ với tấn bi hài kịch thi cử Tú Xương, chúng ta có thể hình dung phần nào “chân dung” những văn nhân “lạc đệ thời” khác thuở trước. Đó là một trong những mặt đóng góp đáng ghi nhận của thơ ông. Viết về minh, Tú Xương một mặt tự cường điệu, giễu cợt “Cờ bạc kiệu cờ cao nhất xứ, Rượu chè trai gái đủ tam khoanh”. Mặt khác, chân thực hơn, ông chua xót than thở “Van nợ lắm khi trào nước mắt, Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi”. Đông con, nhà nghèo cho nên nhà thơ mới có cảnh nực cười “Bức sốt nhưng mình vần áo bông, Tưởng rằng ốm nắng hóa ra không”. Hơn thế nữa, đàn con của ông cũng “Một tuồng rách rưới con như bố”, vợ ông “Hai chữ nghêu ngao vợ chán chồng” v.v... Tú Xương làm thơ về cảnh sống nhàn rỗi, vô vị của mình: Trời đất sinh ra chán vạn nghề, Làm thầy làm thợ lại làm thuê. Bác này mới thật thái vô tích, Sáng vác ô đi, tối vác về. Ao ước thoát khỏi cuộc sống bế tắc, nghèo túng, cũng có lúc Tú Xương tự hỏi: Ông có đi thi ký lục không? Nghe ông quốc ngữ học chưa thông. Ví dụ nhà nước cho ông đỗ, Mỗi tháng lương ông được mấy đồng? Qua thơ Tú Xương, ta thấy gánh nặng cuộc sống gia đình ông đặt hết lên vai bà vợ chịu thương chịu khó, quanh năm “Lặn lội thân cò khi quãng vắng” ở “mom sông” để “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Có lẽ Tú Xương xót xa lắm khi làm những dòng thơ như vậy để khen vợ. Th.S Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX - 43 – Cái tôi hay nhân vật trữ tình trong thơ Tú Xương thường buồn, nhiều khi buồn đến vô vọng. Tú Xương cười nhiều trong thơ nhưng ông cũng có nhiều bài thơ thuần túy trữ tình. Đó thường là những bài thơ buồn, khung cảnh thường quạnh vắng. Hình ảnh nhà thơ trong các bài thơ trữ tình là hình ảnh một con người buồn, cô đơn, bế tắc. Tú Xương buồn nhưng theo ông đó không phải là cái buồn có nguyên nhân cụ thể, ông buồn vì tất cả những gì đã diễn ra với cuộc đời ông, đang diễn ra chung quang ông. Ông đã diễn tả được rất nhiều về con người ông, thời đại ông trong bài thơ sau: Trời không chớp bể lại mưa nguồn, Đêm nảo, đêm nao tớ cũng buồn. Bối rối tình duyên cơn gió thoảng, Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông. Khăn khăn, áo áo, thêm rầy chuyện, Bút bút, nghiên nghiên, khéo dở tuồng. Ngủ quách sự đời thây kẻ thức, Bên chùa thằng trọc đã hồi chuông. Có lúc trong bóng đêm dày đặc, mấy tiếng ếch vọng lên từ sông Lấp gợi lên trong lòng ông cả một nỗi buồn xa vắng, nuối tiếc trước cảnh “thương hải tang điền” (bãi biển thành nương dâu) của quê hương đất nước: Sông kia rày đã nên đồng, Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Vẳng nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Tâm trạng bế tắc, cô đơn, thất vọng của Tú Xương trong các bài thơ trữ tình điển hình cho tâm trạng của tầng lớp Nho sĩ trong bước đổi thay của xã hội, đất nước đầu thế kỷ XX. Trước sự xuất hiện đột ngột của chế độ thực dân nửa phong kiến, cuộc giao tranh cũ mới về văn hóa, các nhà Nho không khỏi trở nên lạc lõng, bơ vơ. Với một hoàn cảnh riêng đặc biệt và một tài năng thơ ca hiếm có, Tú Xương đã diễn tả thật sống động về mình, về cuộc sống xã hội thời đại ông. Xúc cảm trữ tình sâu lắng, trào phúng sắc sảo là những nguyên nhân khiến thơ ông có sức lôi cuốn đặc biệt... Ngôn ngữ thơ Tú Xương là ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày nhưng đã được sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nên có sức diễn tả lớn, hấp dẫn. Thi liệu thơ Tú Xương là cuộc sống hiện thực trước mắt, là những việc thực, người thực vừa cụ thể, cá thể vừa mang tính điển hình, khái quát. [ ] VẤN ĐỀ ÔN TẬP Th.S Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX - 44 – 1. Hình ảnh xã hội thực dân nửa phong kiến trong thơ Tú Xương? 2. Sự suy vi của Nho học qua thơ Tú Xương? ° Th.S Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhxhvh0015_p2_7201.pdf
Tài liệu liên quan