Hướng về văn hoá biết tôn trọng nét khác biệt của những người khác
để đạt đến cuộc sống chung của nhiều nền văn hoá khác nhau trong thế giới DUY NHẤT này,
cần phải có một „tư duy theo chiều từ người khác đến với ta và từ ta hướng về người khác“.
Không thể thiếu được nỗ lực tiến đến nền văn hoá biết tôn trọng nét khác biệt của những người
khác dựa trên cơ sở của quan hệ tương hỗ. Nền văn hoá tôn trọng trên cơ sở tương hỗ có nghĩa là
„Văn hoá và lịch sử của NGƯỜI NÀY không bao giờ được coi là chuẩn mực cho NGƯỜI KIA.
Cả NGƯỜI KIA cũng cần bảo vệ một bản sắc riêng bắt rễ trong văn hoá và lịch sử, bản sắc ấy
cần được tôn trọng chứ không bị phủ nhận.“
Tuy nhiên, tôn trọng sự bình đẳng của người khác đòi hỏi ở chúng ta nhiều hơn là chỉ thuần túy
chấp nhận nét khác biệt của họ. Vấn đề cốt lõi của cuộc chung sống hoà bình là TÍNH đỘ2
LƯỢNG mà trong đó, nói theo cách của Goethe, chỉ chấp nhận người kia một cách hình thức thì
chẳng khác gì lăng mạ họ. Tính độ lượng tạo điều kiện để chung sống cho những người vốn
hướng theo những giá trị khác nhau, thậm chí xung khắc nhau. Tính độ lượng nhất định không
phải là thuốc trị bách bệnh, nhưng là điều kiện để chung sống hoà bình, vì có nó mà nhận ra sự
khác biệt, cũng như ngược lại vì có sự khác biệt mà cần có tính bao dung. Tất nhiên, tính độ
lượng dựa trên có đi có lại, nghĩa là ai đòi nhận được độ lượng thì chính mình cũng phải tỏ ra độ
lượng. đó là một câu hỏi hóc búa, vì giới hạn của tính độ lượng sẽ chấm dứt khi người kia không
độ lượng. Công nhận NGƯỜI KHÁC với sự khác biệt của họ là một khía cạnh của sự tôn trọng,
là vô tư chấp nhận sự khác biệt, cũng như khả năng thông cảm, khả năng đồng cảm một cách
khiêm nhường, học hỏi và thiện chí – không dính dáng gì đến sự đánh giá khoảng giao thoa là
cách nhìn những gì có chung, mà là công nhận sự khác biệt
14 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Khát vọng vươn tới hài hoà - Những nét cơ bản trong tư duy châu á qua ví dụ về đạo lý Ấn Độ và Trung Hoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho thuyết biện chứng „Toàn vẹn
ñôi ñường“.
Bức tranh cụ thể về Thống nhất trong ña dạng là một bức hình về cội rễ mà từ ñó vô số cành
nhánh (mo) trổ ra. ða dạng xuất thân từ ðơn dạng, trong khi ðơn dạng phát triển thành ða dạng.
Bộ rễ không cao hơn, không tốt hơn cành lá, cho dù nó là nguồn gốc của các cành lá. Trong tư
duy Trung Hoa, bộ rễ không gây ra hình tượng mang tính ưu thế sản sinh ra cái phụ, cái kế tiếp,
cái ña dạng. Mà là cái tổng thể nằm trong trung ñiểm, nghĩa là bộ rễ tách ra thành gốc cây và các
cành nhánh. Không có rễ thì không có cành. Nhưng ngược lại cũng ñúng: bộ rễ nào không phát
triển thêm cành thì có nghĩa là chết rồi.
Ý chủ ñạo trong các ñọan văn cổ nhất của Zhuangzi (trước tác cổ nhất của Lão giáo từ thế kỷ 4-2
trước Công nguyên) cũng dõi theo một sự thống nhất bất biến nhưng luôn thể hiện trong số nhiều.
Trong bức tranh về một cơn gió thổi qua mọi ñịa hình, nhưng lúc thì là một cơn gió thoảng, khi
lại là trận cuồng phong, gợi cho ta suy tưởng về mối tương quan giữa Thống nhất và ða dạng.
Bao giờ cũng chỉ là một sự thống nhất với nhiều hình vẻ thể hiện, và mặc dù mang vẻ ña nguyên
nó không mất tính thống nhất. Các chương sau của sách này, làn gió thoảng ñược liên tưởng qua
sức mạnh nguyên thủy tạo ra mọi sự sống của ñạo Lão.
Hệ quả của cách giải thích này là, mặc dù có nhiều khác biệt nhưng vẫn tồn tại một sự bình ñẳng,
bởi vì trong bản chất mọi vật ñều sinh ra từ một lực nguyên thủy. Cái kia, do vậy, sẽ là cái khác
của cái này, do vậy chỉ là tương ñối. Cái bình ñẳng là cơ sở của mọi cái khác biệt, và ngược lại,
cái khác biệt bị xóa bỏ trong cái bình ñẳng.
Tâm ñiểm trống rỗng: những hình ảnh của nguyên lý bình ñẳng trong Lão giáo
Tư duy biện chứng nằm trong bản chất của triết học Trung Hoa, ñiều ñó cũng ñược phản ánh
trong thế giới hình ảnh của Lão giáo. Hành ñộng trong Thụ ñộng, dùng Nhu và Nhược ñể chiến
thắng Cương và Hùng, ñó là hai trong những luận cứ quen thuộc nhất của Lão giáo phản ánh bản
chất phụ thuộc lẫn nhau giữa cái Này và cái Kia và vượt qua mọi ñối nghịch bằng sự Thống nhất
11
nằm ngay trong sự ñối nghịch ñó. Hình ảnh chiếc bánh xe ñặc biệt dễ hiểu: „30 nan hoa gặp
nhau ở trục giữa. Khoảng trống giữa chúng là nguyên nhân tại sao chiếc xe vận hành ñược“
ðối với Lão giáo, chiếc bánh xe là thể hiện hoàn hảo sự tương phùng của các ñối nghịch. Trục
bánh xe và nan hoa là các cấu thành của bánh xe, chỉ cùng phối hợp với nhau thì chúng mới có ý
nghĩa. Tâm ñiểm của bánh xe là trục, là tâm ñiểm trống rỗng. Nó ñứng yên và ñấy bánh xe lăn.
Trong khi có nhiều nan hoa, thì ở trung tâm là một sự thống nhất: trống rỗng, lặng im, tĩnh tại.
Trung tâm và Ngoại vi, Thống nhất và ða dạng, ðộng và Tĩnh, ñó là các cặp ñối nhau kinh ñiển
thể hiện trong nan hoa và trục cũng như mất tính ñối nghịch ở ñó. ðể ñảm bảo cho hoạt ñộng trơn
tru của bánh xe, cần có sự phối hợp hoàn hảo của các ñối nghịch, trong ñó cái Này cần thiết và
không thể thiếu ñối với cái Kia và ngược lại cũng thế.
Xuất phát từ cái trống rỗng của trung ñiểm, không có tiêu chí ðÚNG hay SAI ñể theo ñó mà ñánh
giá nữa. Cái gì cũng có chỗ ñứng bình ñẳng của mình. Lão giáo mong ñợi ở người lãnh ñạo thông
thái rằng ông ta - từ bình diện „số 0“ tại trung ñiểm - hướng sự chú ý bình ñẳng của mình tới tất
cả, không hề có sự khác biệt nào, vì người lãnh ñạo ñó thấu hiểu tính tương ñối của các ñối nghịch
sẽ bị triệt tiêu trong thống nhất. Không thể nhận ñịnh kiểu ðÚNG hay SAI. ðÚNG ñối với người
này, biết ñâu lại là SAI ñối với người khác.
Sống theo nhân bản - những khía cạnh của tư duy Khổng tử
Sự bình ñẳng ñã miêu tả trong Lão giáo – tin rằng cái Này bổ sung tương tác cho cái Kia – là một
lý tưởng xã hội không tưởng, nó phân lập thực tiễn với cấu trúc của các quan hệ thứ bậc, tuy
nhiên có tham vọng ñược thực thi. Thực tế thì thường là „bình ñẳng không là bình ñẳng“ (tham
khảo thêm Xunzi 9:96 dựa vào das Buch der Urkunden). Không bỏ qua thực tế là có sự bất bình
ñẳng xã hội, ñạo Khổng tập trung vào tư tưởng của tương quan, ñể nhấn mạnh nguyên tắc bình
ñẳng của mọi người. Thí dụ như Xunzi ñã ñưa ra dự kiến gắn liền sự bất bình ñẳng xã hội có thật
với thời ñiểm bình ñẳng ở một hình thức mà sự bình ñẳng vượt lên mọi bất bình ñẳng, tốt nhất
nên ñịnh nghĩa là bình ñẳng về cơ hội.
12
Sự bình ñẳng không va chạm với sự bất bình ñẳng, bởi vì việc phân bổ vai trò khác nhau nói cho
cùng là có lợi cho phúc lợi của tất cả, vì nó ñảm bảo cho guồng máy hoạt ñộng trơn tru. Thông
qua một kiểu khế ước xã hội, luận cứ vụ lợi cho công cộng công nhận sự bất bình ñẳng là nguyên
tắc cấu trúc của trật tự xã hội, trong ñó có nêu rằng mỗi một vị trí trong xã hội gắn liền với các
nghĩa vụ nhất ñịnh – trong cấu trúc thứ bậc ñó, ai ở cao hơn thì phải có nhiều trách nhiệm và
gương mẫu hơn những ai ở bậc dưới. Qua ñó giải thích ñược, tại sao nhà vua phải có mức ñạo
ñức cao nhất, trong ñó bao gồm cả trí thông minh và tầm nhìn ñể ñối xử một cách công bằng với
mọi người.
Trong các ñức tính của một người tốt - luận văn Trung Hoa cổ ñại thường lấy nhà vua làm ví dụ -
bao gồm chủ yếu là: lương thiện, xét ñoán công bằng - thông qua cách lui về tầm nhìn „số 0“ của
trung ñiểm trống rỗng và ñánh giá con người không dựa vào vị thế của họ. Khổng tử ñịnh nghĩa
con người cao cả, thông thái và tốt là người cho ñứa con trai có khả năng của mình một chức vụ,
và cho kẻ thù của mình nhiệm vụ mà hắn có trình ñộ ñảm ñương..
Trong trung tâm của ñạo lý Khổng tử là ñạo ñức nhân cách ren (NHÂN). So với chữ NHÂN thì
tất cả các ñạo ñức khác ñều thấp hơn. Ví dụ như xin (TÍN), gong (LỊCH), he (HÀI HÒA) còn
ñứng dưới ren, kể cả yong (DŨNG), zhi (TRÍ) và ning (TINH THÔNG). Mọi ñạo ñức ñều chỉ
thông qua ren mới có ý nghĩa.
ðặc trưng cho tầm ý nghĩa của ren là, chữ NHÂN ám chỉ tình yêu con người, không dính dáng
ñến vị thế xã hội hoặc hạn chế vào xuất xứ từ quần thể nào (ví dụ: thân quyến). Chữ NHÂN ñược
áp dụng cho tất cả mọi người chứ không ñòi hỏi ngoại lực. Qua ñó, tư duy Khổng tử ñặt con
người vào vị thế bình ñẳng tổng quát, chỉ vì họ là người, và vị thế này ñòi hỏi mối tương quan và
ñối xử bình ñẳng bất kể chỗ ñứng trong xã hội.
Nhân cách ñòi hỏi phải ñối xử với người khác, bất kể ñịa vị xã hội, như chính mình muốn ñược
người khác ñối xử. ðem nhân cách ñến với người khác – ñó là một quy tắc giao tiếp luôn luôn
ñúng mà con người ñáng ñược hưởng với tư cách con người. Nội dung: „Yêu người, ñem lợi cho
tất cả, ñó là nhân cách“ (Zhuangzi 12:183). Thiện ý, chăm sóc, lòng tốt, nhân ñạo thuộc về nội
dung của nhân cách ñáng ñể làm quy ñịnh ñạo lý nhằm xuyên suốt một cách công bằng mọi ý chí
ñạo ñức, và làm ta cảm thông với khổ nạn và nghèo khó của người khác.
13
ðối xử với người khác như chính mình muốn ñược người khác ñối xử - ñó là nội dung của Các
quy tắc vàng ñược nêu trong nhiều ñoạn trong trước tác của Khổng tử, kể cả về nghĩa tích cực lẫn
tiêu cực: „Ra khỏi nhà, hãy xử sự như ñón chào một vị khách quý (...) cái gì tự mình không
muốn, ñừng làm việc ñó với người khác.
Về hình thức, người ta suy từ những nhu cầu riêng của mình ra nhu cầu của người khác, từ ñó suy
ra rằng cái gì tốt cho mình thì cũng tốt ñối với người khác. ðiều logic này cho phép nhìn nhận các
giá trị luân lý có chỗ ñứng vững chắc trong tư duy Trung Hoa, và các giá trị ấy hiển nhiên ñều tốt
cho tất cả mọi người. Trong Các quy tắc vàng ẩn chứa một giá trị ñạo ñức tổng quát, thể hiện cái
Tốt hay cái Xấu một cách rõ rệt. Người ta cũng tin rằng, tôi và người khác ñều cùng coi một sự
việc là tốt (hoặc xấu), như vậy thì tiền ñề là con người có một cảm nhận về ñạo ñức không phụ
thuộc vào vị thế, chỉ vì con người là con người.
ðiều ñó có nghĩa là: mỗi người trong hoàn cảnh ấy sẽ cùng coi một sự việc là tốt (hoặc xấu)
giống nhau, sẽ mong cái tốt (hoặc không mong cái xấu) cho người khác. Yêu cầu tương hỗ của
Các quy tắc vàng dựa trên nền tảng của tầm nhìn thay ñổi (TÔI – ANH) cần ñược mở rộng thêm
qua tầm nhìn của người khác. NGƯỜI KHÁC ấy xuất hiện, họ sẽ ñược nhận sự tôn trọng và thiện
chí.
Kết luận:
Các tôn giáo phương ðông ñã tìm thấy ở lòng tin vào sự thống nhất trong ña dạng một hình tượng
tư duy cho phép những cái khác biệt ñược tồn tại bên nhau. ða dạng làm phong phú thêm, sự
khác biệt là cái khác biệt của chính mình và cũng chỉ là tương ñối, bởi vì ña dạng xuất thân từ
thống nhất. Không có sự ñộc tôn „A hay B“, mà chỉ có „Cả A lẫn B“ tri giác ñược nhu cầu bổ
sung của cái Này ñối với cái Kia và ngược lại.
Với hình tượng tư duy của tính bổ sung - cả A lẫn B toàn vẹn ñôi ñường - cũng như triết học và
thần học về sự hài hòa phát triển trên cơ sở ñó, cả ñạo Hindu lẫn những truyền thống Trung Hoa
ñều ñưa một mô hình về tính ñộ lượng vào cuộc ñàm luận tôn giáo. Nó dạy ta kính trọng sự khác
biệt, qua ñó góp phần vào cuộc chúng sống hoà bình giữa nhiều nền văn hóa có khác nhau nhưng
cùng trong một thế giới duy nhất.
14
Các tôn giáo có thể ñưa ra một tiềm năng lớn về ñộ lượng và hòa bình, phải luôn nhớ ñến và thực
thi ñiều ñó trong cuộc sống, ñể rốt cuộc ứng dụng thành công trong chính trị.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kas_12135_1522_1_30_1559.pdf