Mở đầu: Thang điểm Constant là công cụ đánh giá chức năng vai được chấp nhận và sử dụng rộng rãi ở
Châu Âu. Nó có vai trò to lớn trong việc đánh giá hiệu quả điều trị sau một số bệnh lý về vai đặc biệt là bệnh lý
về chóp xoay. Tuy nhiên mục đo sức cơ vai trong thang điểm này lại không phù hợp và đòi hỏi phải được chuẩn
hoá để áp dụng cho người Việt Nam.
Mục tiêu: Tính sức cơ vai bình thường của người Việt Nam và chuẩn hoá thang điểm Constant.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả dựa trên 384 đối tượng không có bệnh lý hay
những rối loạn vùng vai. Chúng tôi tính sức cơ vai trung bình của người Việt Nam; tìm sự thay đổi sức cơ vai
theo nhóm tuổi, giới tính, tay thuận, hoạt động thể thao và nghề nghiệp; đưa ra công thức chuẩn hoá mục đo sức
cơ vai dựa trên sức cơ vai bình thường theo nhóm tuổi và giới tính.
8 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 560 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Khảo sát sức cơ vai người Việt Nam theo cách tính điểm constant, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẳng vai khi đo cũng như thời gian
mỗi lần đo, Conboy(1) đã chỉ ra rằng cách đo này
gây sai số giữa các quan sát viên khác nhau. Một
nghiên cứu khác của Gerber(5) còn cho thấy sức
cơ vai tăng dần theo mỗi 10 tuổi, trái ngược hẳn
với kết quả của chúng tôi. Sự khác biệt này có
thể giải thích bằng dân số nhỏ được sử dụng
trong nghiên cứu của Gerber. Để giải thích cho
việc sức cơ suy giảm theo tuổi ở người Việt Nam
chúng tôi dựa trên báo cáo về thực trạng thể
chất người Việt Nam từ 21‐60 tuổi, theo PGS
Dương Nghiệp Chí (4), thể chất người Việt Nam
ở nhóm 21‐36 tuổi là có tính ổn định hơn cả, thể
chất nói chung có xu hướng giảm theo sự gia
tăng vể tuổi, mức độ giảm nhiều nhất là ở độ
tuổi trên 50. Do đó, sự suy giảm có ý nghĩa về
sức cơ vai ở nam và nữ sau tuổi 50 theo nghiên
cứu của chúng tôi là hợp lý. Chúng tôi cho rằng
nếu kết hợp cả yếu tố giới tính và nhóm tuổi vào
việc đánh giá sức cơ vai sẽ tăng tính chính xác,
giảm bớt sai lệch cho thang điểm Constant.
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi
cũng đánh giá thêm ảnh hưởng của một số yếu
tố khác lên sức cơ vai. Đầu tiên là tay thuận và
tay không thuận, tay thuận là tay thường dùng
để thực hiện các động tác quan trọng, thiết yếu
trong lao động cũng như đời sống hàng ngày.
Chúng tôi thấy rằng sức cơ vai tay thuận lớn
hơn có ý nghĩa thống kê so với sức cơ vai tay
không thuận, có lẽ là do tay thuận là tay thường
xuyên được sử dụng nên có sự phát triển cơ bắp
trội hơn so với tay còn lại.
Tiếp theo, liên quan tới hoạt động thể thao,
chúng tôi không tìm thấy các tài liệu nói về vấn
đề phân nhóm các môn thể thao, cho nên chúng
tôi đã dựa trên một số môn thể thao tiêu biểu mà
người Việt Nam thường chơi để phân chia ra 2
nhóm là vận động nhẹ và vận động mạnh.
Chúng tôi cho rằng việc phân nhóm dựa trên
mức độ vận động sẽ giúp đánh giá ảnh hưởng
của hoạt động thể thao lên sức cơ vai một cách
thoả đáng nhất. Nhóm vận động mạnh sẽ gồm
các môn thể thao như: bóng đá, quần vợt, cầu
lông, tạ, xà đơn, chạy bộ, bóng bàn,... Nhóm vận
động nhẹ sẽ gồm các môn thể thao như: đi bộ,
dưỡng sinh, khiêu vũ, yoga,... Qua phân tích kết
quả sức cơ vai của các nhóm, chúng tôi thấy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 436
rằng sức cơ vai trung bình có khuynh hướng
giảm dần từ nhóm vận động mạnh, nhóm vận
động nhẹ và nhóm không chơi thể thao. Điều
này cho thấy rằng việc phân chia môn thể thao
dựa trên mức độ vận động của chúng tôi là khá
hợp lý và hoạt động thể thao có ảnh hưởng lên
sức cơ vai. Tương tự như phân nhóm hoạt động
thể thao, chúng tôi nghĩ rằng việc phân nhóm
dựa trên tiêu chí mức độ vận động nhiều hay ít
sẽ phù hợp khi xét ảnh hường của nghề nghiệp
lên sức cơ vai. Do đó chúng tôi quyết định chia
nghề nghiệp ra bốn nhóm: nhóm trí thức như
giáo viên, bác sỹ, kỹ sư,... nói chung là các nghề
có tính chất ít vận động; nhóm lao động chân
tay như nông dân, công nhân, thợ máy, khuân
vác,... nói chung là các nghề có tính chất vận
động nhiều; nhóm buôn bán; và còn lại là nhóm
khác như nội trợ, nghỉ hưu, thất nghiệp. Chúng
tôi thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
các nhóm nghề nghiệp, tuy nhiên, chúng tôi
không thể giải thích thoả đáng những thay đổi
nay nếu chỉ dựa trên việc phân nhóm theo mức
độ vận động của nghề nghiệp mà còn dựa vào
phân bố tuổi và giới tính trong từng nhóm nghề
nghiệp. Do đó, chúng tôi nghĩ rằng ảnh hưởng
của yếu tố nghề nghiệp lên sức cơ vai là không
rõ ràng. Để hiểu rõ hơn, chúng tôi tìm mối liên
quan giữa sức cơ vai với tuổi, giới tính, hoạt
động thể thao và nghề nghiệp bằng phương
trình hồi quy tuyến tính. Qua đó, chúng tôi nhận
thấy rằng 65% sự thay đổi sức cơ vai có liên
quan đến tuổi, giới tính và hoạt động thể thao.
Đây là một tỉ lệ khá cao. Yếu tố nghề nghiệp ít có
ảnh hưởng tới sức cơ vai.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu “Khảo sát sức cơ vai người Việt
Nam theo cách tính điểm Constant” được thực
hiện dựa trên việc đo sức cơ vai của 384 đối
tượng. Chúng tôi rút ra các kết luận sau:
‐ Sức cơ vai bình thường của người Việt
Nam trung bình 11,2 pound.
‐ Sức cơ vai của người Việt Nam giảm dần
theo sự gia tăng của tuổi.
‐ Sức cơ vai của nam giới lớn hơn nữ giới
(13,4 pound so với 8,9 pound).
‐ Sức cơ vai tay thuận lớn hơn tay không
thuận (11,9 pound so với 10,4 pound).
‐Ảnh hưởng của tuổi và giới tính tới sức cơ
vai là rõ ràng nhất, kế đó là hoạt động thể thao.
Yếu tố nghề nghiệp không cần thiết khi đánh giá
sức cơ vai.
ỨNG DỤNG LÂM SÀNG
Kết quả nghiên cứu cho thấy sức cơ vai của
người Việt Nam không đạt được 25 pound
như Constant quy định, ngoài ra sức cơ vai
còn thay đổi theo nhóm tuổi và giới tính do đó
thang điểm Constant sẽ có nhiều điểm bất cập
khi áp dụng trên dân số Việt Nam. Một thang
điểm đánh giá kết quả phải có giá trị trong
đánh giá bệnh nhân sau phẫu thuật. Nó phải
đáng tin cậy về mặt lâm sàng, tránh được
những sai lệch do quan sát và đánh giá khi
được thực hiện bởi những nhà quan sát có
kinh nghiệm khác nhau. Hơn nữa, một thang
điểm tốt sẽ giúp trao đổi thông tin một cách
hiệu quả hơn, giúp chuẩn hoá khi so sánh giữa
các đối tượng khác nhau ở các trung tâm
nghiên cứu khác nhau. Do đó chúng tôi đề
nghị chuẩn hoá lại thang điểm Constant như
sau: giữ nguyên các phần khác và thay đổi
phần đo sức cơ vai, cụ thể là phương pháp đo
sẽ dựa trên mô tả của Katolik(7), cách tính điểm
sẽ dựa trên sức cơ vai bình thường theo nhóm
tuổi và giới tính của người Việt Nam. Chúng
tôi quyết định chia 3 nhóm tuổi là 21‐60, 61‐70
và trên 70; mỗi nhóm sẽ gồm 2 giới nam và nữ
(bảng 5).
Bảng 5. Sức cơ vai bình thường của người Việt Nam
(n = 384)
Nhóm tuổi
Sức cơ vai (pound)
Nam Nữ
21-60 (n = 256) 14,7 9,8
61-70 (n =64) 12,0 8,2
> 70 (n = 64) 9,6 6,2
Chúng tôi đề nghị sử dụng công thức sau để
tính điểm chuẩn của mục sức cơ vai:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 437
Trong đó, sức cơ vai thô là sức cơ vai đo
được của đối tượng, sức cơ vai bình thường
được xác định trong bảng 5.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Conboy VB, et al (1996). An evaluation of the Constant Murley
shoulder assessment. Journal of Bone & Joint Surgery, British
Volume, 78‐B(2): 229‐232.
2. Constant CR and Murley AH (1987 Jan). A clinical method of
functional assessment of the shoulder. Clin Orthop Relat Res, 214:
160‐4.
3. Dương Nghiệp Chí (2001). Điều tra đánh giá thực trạng thể chất
của người Việt Nam, Giai đoạn I, từ 6‐20 tuổi. Uỷ ban Thể dục
Thể thao: Viện Khoa học Thể dục Thể thao.
4. Dương Nghiệp Chí (2005). Điều tra đánh giá thực trạng thể chất
và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt
Nam, Giai đoạn II, từ 21‐60 tuổi. Uỷ ban Thể dục Thể thao: Viện
Khoa học Thể dục Thể thao.
5. Gerber C and Arneberg O (1992). Measurement of abductor
strength with an electrical device (Isobex) [abstract]. Journal of
Shoulder and Elbow Surgery, 1: S6.
6. Greenfield BH, et al (1990). Isokinetic evaluation of shoulder
rotational strength between the plane of scapula and the frontal
plane. The American Journal of Sports Medicine, 18(2): 124‐
128.
7. Katolik LI, et al (2005). Normalization of the Constant score.
Journal of Shoulder and Elbow Surgery, 14(3): 279‐285.
8. Kirkley A, Griffin S, and Dainty K (2003). Scoring systems for
the functional assessment of the shoulder. Arthroscopy: The
Journal of Arthroscopic & Related Surgery, 19(10): 1109‐
1120.
9. Lê Anh Thơ. Xây dựng ʺGia đình luyện tập TDTTʺ giải pháp
chiến lược về TDTT cho mọi người ở Việt Nam. Tổng cục Thể dục
thể thao.
10. Tăng Hà Nam Anh (2013). Kết quả khâu rách gân chóp xoay qua
nội soi. Dự thảo Luận án Tiến sĩ y khoa, Đại học Y Dược TP.
Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
11. Yian EH, et al (2005). The constant score in normal shoulders.
Journal of Shoulder and Elbow Surgery, 14(2): 128‐133.
Ngày nhận bài báo: 24/10/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24/10/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 430_5633.pdf