Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa tình trạng kháng insulin với đặc điểm tổn thương thận ở bệnh nhân
(BN) đái tháo đường (ĐTĐ) typ 2.
Đối tượng nghiên cứu và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang 288 đối tượng, chia làm 3 nhóm.
Nhóm1 ‐ chứng khỏe mạnh (n=51), nhóm 2 ‐ chứng BN ĐTĐ typ 2 không tổn thương thận (n= 113), nhóm 3 ‐
BN ĐTĐ typ 2 có tổn thương thận (n= 124) khi có 1 trong các biểu hiện vi đạm niệu (MAU), albumin niệu
(MAC), suy thận mạn tính (STMT) chưa có lọc máu chu kỳ. Tất cả các đối tượng được định lượng glucose‐máu
lúc đói, insulin huyết thanh, C‐peptid huyết thanh. Dựa vào nồng độ glucose, C‐peptid huyết thanh để xác định
chỉ số kháng insulin, độ nhạy insulin, chức năng tế bào beta theo mô hình HOMA2 vi tính, ký hiệu lần lượt là:
HOMA2‐IR, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B. Xác định có kháng insulin khi nồng độ insulin, C‐peptid và
HOMA‐IR cao hơn, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B thấp hơn so với chỉ số tương ứng ở nhóm chứng. Giá trị chỉ
số ở BN được coi là tăng khi lớn hơn giá trị trung bình + 1 SD (phương sai), được coi là giảm khi nhỏ hơn giá trị
trung bình – 1 SD của chỉ số tương ứng thuộc nhóm chứng.
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 555 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Khảo sát mối liên quan giữa kháng insulin và tổn thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 468
KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA KHÁNG INSULIN
VÀ TỔN THƯƠNG THẬN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2
Nguyễn Thị Thanh Nga*, Hoàng Trung Vinh**, Nguyễn Thị Bích Đào***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa tình trạng kháng insulin với đặc điểm tổn thương thận ở bệnh nhân
(BN) đái tháo đường (ĐTĐ) typ 2.
Đối tượng nghiên cứu và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang 288 đối tượng, chia làm 3 nhóm.
Nhóm1 ‐ chứng khỏe mạnh (n=51), nhóm 2 ‐ chứng BN ĐTĐ typ 2 không tổn thương thận (n= 113), nhóm 3 ‐
BN ĐTĐ typ 2 có tổn thương thận (n= 124) khi có 1 trong các biểu hiện vi đạm niệu (MAU), albumin niệu
(MAC), suy thận mạn tính (STMT) chưa có lọc máu chu kỳ. Tất cả các đối tượng được định lượng glucose‐máu
lúc đói, insulin huyết thanh, C‐peptid huyết thanh. Dựa vào nồng độ glucose, C‐peptid huyết thanh để xác định
chỉ số kháng insulin, độ nhạy insulin, chức năng tế bào beta theo mô hình HOMA2 vi tính, ký hiệu lần lượt là:
HOMA2‐IR, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B. Xác định có kháng insulin khi nồng độ insulin, C‐peptid và
HOMA‐IR cao hơn, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B thấp hơn so với chỉ số tương ứng ở nhóm chứng. Giá trị chỉ
số ở BN được coi là tăng khi lớn hơn giá trị trung bình + 1 SD (phương sai), được coi là giảm khi nhỏ hơn giá trị
trung bình – 1 SD của chỉ số tương ứng thuộc nhóm chứng.
Kết quả: BN ĐTĐ typ 2 với tổn thương thận có giá trị trung bình insulin, C‐peptid và HOMA2‐IR tăng
trong khi HOMA2‐%S và HOMA2‐%B giảm so với các chỉ số tương ứng ở nhóm chứng bệnh và nhóm chứng
khỏe mạnh. Nồng độ trung bình insulin, C‐peptid và HOMA2‐IR tăng dần, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B
giảm dần theo thứ tự từ BN có vi đạm niệu, albumin niệu đến suy thận mạn. Tỉ lệ % BN tăng insulin, C‐peptid
và HOMA2‐IR so với giá trị trung bình các chỉ số tương ứng ở nhóm chứng khỏe mạnh là: 81,5%, 62,1%,
79,8%. Tỉ lệ % BN giảm HOMA2‐%S và HOMA2‐%B là: 78,2% và 80,6%.
Kết luận: Kháng insulin ở BN ĐTĐ typ 2 liên quan với tổn thương thận trong đó nồng độ insulin, C‐
peptid và kháng insulin tăng dần, chỉ số nhạy cảm insulin và chức năng tế bào beta giảm dần theo các giai đoạn
bệnh thận đái tháo đường.
Từ khóa: kháng insulin, đái tháo đường typ 2, bệnh thận mạn do đái tháo đường.
ABSTRACT
RELATIONSHIP BETWEEN INSULIN RESISTANCE AND DIABETIC NEPHROPATHY
IN TYPE 2 DIABETIC ADULTS
Nguyen Thi Thanh Nga, Hoang Trung Vinh, Nguyen Thi Bich Dao
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 468 ‐ 472
Patients and Methods: This is a prospective, cross sectional and descriptive study. We had 288 patients
divided in 3 groups: group 1 (healthy) including 51 healthy people, group 2 (control) including 113 type 2
diabetic patients without kidney damage and group 3 (disease) including 124 type 2 diabetic adults with diabetic
nephropathy. Diabetic nephropathy was defined as patient had at least one of the followings: microalbuminuria,
albuminuria or chronic renal failure not requiring regular dialysis. The clinical parameters for all people were
fasting blood glucose, serum insulin concentration and serum C‐peptide. Based on the concentration of glucose
and serum C‐peptide, we would determine the insulin resistance index, the insulin sensitivity and the pancreatic
* Bệnh viện Nguyễn Trãi ** Học viện Quân Y *** Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: Nguyễn Thị Thanh Nga ĐT: 0908498899 Email: thanhngabvnt@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nội tiết 469
beta cell function according to the computerised model called HOMA2 and symbolize these values as HOMA2‐
IR, HOMA2‐%S and HOMA2‐%B respectively. Insulin resistance was determined when the insulin
concentration, C‐peptide and HOMA2‐IR were higher whereas the HOMA2‐%S and HOMA2‐%B were lower
than correspondent values in the healthy group. The value was defined as high when it was more than the mean
value + 1 SD (standard deviation) in healthy group; low when it was lower than the mean value – 1 SD.
Results: In type 2 diabetic patients with diabetic nephropathy, the mean values of insulin, C‐peptide and
HOMA2‐IR increased whereas the HOMA2‐%S and HOMA2‐%B decreased compared to the correspondent
indexes in healthy and control groups. The mean values of insulin concentration, C‐peptide and HOMA2‐IR also
increased gradually together with the mean values of HOMA2‐%S and HOMA2‐%B decreased in subgroups of
different stages of diabetic nephropathy including microalbuminuria, albuminuria and chronic renal failure. The
percentage of patients with diabetic nephropathy had increased insulin concentration, C‐peptide and HOMA2‐IR
compared to correspondent indexes in healthy group were 81.5%, 62.1% and 79.8% respectively. The percentage
of patients with diabetic nephropathy had decreased HOMA2‐%S and HOMA2‐%B were 78.2% and 80.6%.
Conclusion: The insulin resistance indexes were related to the diabetic nephropathy in which the insulin
concentration, serum C‐peptide and insulin resistance index increased whereas the insulin sensitivity index and
pancreatic beta cell function index decreased corresponding to different stages of diabetic nephropathy.
Key words: insulin resistance, diabetic nephropathy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kháng insulin đóng vai trò quan trọng trong
sinh bệnh học của đái tháo đường typ 2 và trong
các biến chứng mạch máu. Kháng insulin có thể
là một yếu tố nguy cơ của bệnh thận đái tháo
đường. Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy
rằng kháng insulin có thể xuất hiện sớm, thậm
chí sớm hơn ở những bệnh nhân với mức độ
bệnh thận mạn ở giai đoạn 3, 4. Giảm độ nhạy
cảm insulin đã được chứng minh có liên quan
đến chức năng thận suy giảm ngay cả trong
bệnh thận mạn(4,10).
Tổn thương thận là 1 trong các biến chứng
hay gặp, xuất hiện sớm ở BN ĐTĐ typ 2. Tổn
thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2
xuất hiện theo các giai đoạn từ nhẹ đến nặng,
đầu tiên là sự xuất hiện vi đạm niệu, sau đó là
albumin niệu trong đó có thể xuất hiện hội
chứng thận hư, cuối cùng là suy thận mạn tính
các giai đoạn mà nặng nhất là suy thận mạn tính
giai đoạn cuối cần phải điều trị bằng các phương
pháp thay thế thận(2,8).
Kháng insulin vừa là cơ chế bệnh sinh đồng
thời cũng là yếu tố nguy cơ, có liên quan đến
biến chứng thận ở bệnh nhân đái tháo đường
typ 2. Sự gia tăng tình trạng kháng insulin sẽ
ảnh hưởng đến tiến triển của tổn thương thận.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: khảo sát mối
liên quan giữa kháng insulin với tổn thương thận và
giai đoạn tổn thương thận ở bệnh nhân đái tháo
đường typ 2.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 288 chia 3
nhóm, nhóm 1‐ nhóm chứng khỏe mạnh (n =
51), nhóm 2 – BN ĐTĐ typ 2 không tổn thương
thận (n = 113), nhóm 3‐ BN ĐTĐ typ 2 tổn
thương thận chưa có lọc máu chu kỳ (n = 124).
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: tiến cứu, cắt ngang,
mô tả, so sánh.
Nội dung nghiên cứu
Sau khi xác định các đối tượng thuộc nhóm 1
là người khỏe mạnh, tiến hành xét nghiệm các
chỉ số glucose, insulin, c‐peptid huyết thanh.
Tính các chỉ số kháng insulin dựa vào nồng độ
glucose, c‐peptid theo mô hình HOMA2 bằng
cách xác định chỉ số kháng insulin (HOMA 2‐
IR), độ nhạy insulin (HOMA2‐%S) và chức năng
tế bào beta (HOMA2‐ %B). Ở BN thuộc nhóm 2
và nhóm 3 cũng xét nghiệm các chỉ số tương tự
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 470
và tính toán các chỉ số kháng insulin tương tự
như ở nhóm chứng khỏe mạnh.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Giá
trị của 1 chỉ số ở BN được coi là tăng khi trị tuyệt
đối > X + 1SD, giảm khi trị tuyệt đối < X ‐ 1SD
giá trị tương ứng của nhóm chứng. Xác định có
kháng insulin khi tăng nồng độ insulin, c‐peptid
huyết thanh, HOMA2‐ IR; giảm HOMA2‐%S,
HOMA2‐%B.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu
Chỉ số N1 N2 N 3
n 51 113 124
Nam: Nữ 11: 40 30: 83 33:91
Tuổi (năm) 66,4 65,9 69,4
BMI 21,6 ± 1,5 23,1 ± 3,5 22,6 ± 3,9
Thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ (năm) 6,6 ± 5,8 9,3 ± 6,3
HATT 129,1 ± 15,4 136,9 ± 19,1**
HATTr 76,7 ± 7,6 77,2 ± 7,5
Bảng 1 cho thấy các chi tiết nhân khẩu học,
nhân trắc học và huyết động của các đối tượng
nghiên cứu.
Đối tượng nữ trong mỗi nhóm đều chiếm
tỷ lệ cao.
Tỷ lệ đối tượng theo giới giữa 3 nhóm khác
biệt không có ý nghĩa thống kê.
Tuổi trung bình của đối tượng thuộc 3 nhóm
tương đương nhau.
Thời gian phát hiện bệnh trung bình của BN
ĐTĐ typ 2 có tổn thương thận cao hơn so với
BN ĐTĐ typ 2 không có tổn thương thận.
Giá trị trung bình (GTTB) HATT ở BN
thuộc nhóm nghiên cứu cao hơn so với nhóm
chứng bệnh.
Bảng 2: So sánh một số chỉ số giữa bệnh nhân thuộc 3 thể lâm sàng tổn thương thận
Chỉ số MAU (n=22) MAC (n=39) STMT (n=63) P-ANOVA
Tuổi (năm) 67,6 ± 10,4 68,3 ± 9,9 68,4 ± 9,7 >0,05
Thời gian phát hiện bệnh (năm) 6,3 ± 4,7 7,4 ± 6,4 11,1 ± 6,1 <0,05
Glucose máu lúc đói (mmol/l) 9,0 ± 3,96 9,32 ± 4,16 9,66 ± 3,31 >0,05
HbA1c (%) 8,38 ± 2,32 9,05 ± 2,64 8,07 ± 1,77 >0,05
MLCT (ml/1,73m2/phút) 98,5 ± 8,4 95,2 ± 6,1 48,16 ± 11,82 <0,05
HATT (mmHg) 132,5 ± 19,7 141,9 ± 16,3 148,1 ± 17,9 <0,01
HATTr (mmHg) 75 ± 7,5 78,6 ± 6,5 79,6 ± 7,6 <0,01
Mức độ tổn thương thận nặng dần thì: Thời
gian phát hiện bệnh tăng dần, MLCT giảm dần,
chỉ số HATT‐ HATTr tăng dần có ý nghĩa thống
kê. Tuổi BN, nồng độ glucose máu lúc đói,
HbA1c tương đương nhau.
Bảng 3: Tỷ lệ bệnh nhân dựa vào mức độ của các chỉ số kháng insulin giữa các giai đoạn tổn thương thận.
Đặc điểm
MAU (n=22) (1) MAC (n=39) (2) STMT (n=63) (3)
p
n % n % n %
Tăng insulin (>10,29 µmol/ml) 17 77,3 29 74,4 55 87,3 1&3, 2&3 0,05
Tăng C-peptid (>1,18 nmol/l) 12 54,5 22 56,4 43 68,3 p ANOVA <0,01
Tăng HOMA2-IR (>1,92) 16 72,7 30 76,9 53 84,1 1&3, 2&3 0,05
Giảm HOMA2%S (0,05
Giảm HOMA2% B (0,05
Khi mức độ tổn thương thận nặng dần thì:
Tỷ lệ BN có tăng C‐peptid tăng dần.
Khi STMT, số lượng BN có tăng insulin, tăng
HOMA2‐IR chiếm tỷ lệ cao nhất trong khi ở BN
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nội tiết 471
với MAU(+), MAC(+) thì số lượng tăng insulin
hoặc HOMA2‐IR tương đương nhau.
Khi STMT, số lượng BN có giảm độ nhạy
insulin hoặc CNTB β chiếm tỷ lệ cao nhất trong
khi ở BN MAU(+), MAC(+) thì số lượng giảm 2
chỉ số trên tương đương nhau.
Tỷ lệ bệnh nhân kháng insulin ở các giai
đoạn khác nhau của bệnh thận ĐTĐ.
Tỷ lệ bệnh nhân kháng insulin càng tăng khi
chức năng thận càng giảm, ở các giai đoạn khác
nhau của bệnh thận ĐTĐ.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi đã chứng minh
rằng đề kháng insulin liên quan đáng kể với
bệnh thận ĐTĐ, kháng insulin tăng lên với tình
trạng giảm dần mức lọc cầu thận ở những đối
tượng mắc bệnh ĐTĐ typ 2. Có nghĩa là giá trị
HOMA2‐ IR tăng lên khi mức lọc cầu thận giảm
dần. Nghiên cứu ở Ấn Độ gần đây đã cho thấy
mối liên hệ giữa kháng insulin và các giai đoạn
của bệnh thận ĐTĐ typ 2(10). Nghiên cứu của
Svensson và cộng sự(8), đã chứng minh rằng một
số cơ chế trong đó bao gồm các kích thích tố lưu
thông, các nội tiết tố thần kinh, viêm mãn tính có
thể đóng góp vào sự gia tăng kháng insulin ở
các giai đoạn khác nhau của bệnh thận ĐTĐ.
Các tác giả cũng kết luận rằng kháng insulin là
một hệ quả, và có khả năng cũng là nguyên
nhân của bệnh thận ĐTĐ. Các yếu tố nền tảng di
truyền và môi trường cũng có thể ảnh hưởng
đến kháng insulin và bệnh thận ĐTĐ(3,5).
Nghiên cứu của chúng tôi là một thiết kế cắt
ngang do đó vẫn chưa rõ liệu kháng insulin là
một nguyên nhân của sự suy giảm chức năng
thận. Kết quả nghiên cứu Nhật Bản cho rằng sự
kháng insulin và tăng insulin máu là những yếu
tố có liên quan của chức năng thận trong dân số
chung sau khi có tính đến những yếu tố nguy
cơ, là nguyên nhân gây ra tăng huyết áp và tăng
độ lọc cầu thận, có thể gây xơ hóa cầu thận tiến
đến rối loạn chức năng thận(6).
Các kết quả của nghiên cứu này cho thấy sự
hiện diện của kháng insulin ngay cả trong giai
đoạn chưa có albumin niệu và bệnh thận ĐTĐ
dẫn đến kháng insulin trầm trọng hơn và chúng
tôi đã không được đánh giá các yếu tố khác có
thể liên quan với sự suy giảm chức năng thận(8).
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu này đã được phù
hợp với tuổi, BMI, thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ
và kiểm soát glucose máu, do vậy khảo sát thêm
và nghiên cứu tiền cứu là cần thiết để làm rõ
mối quan hệ nhân gây bệnh giữa đề kháng
insulin và chức năng thận.
Có giả thiết cho rằng kháng insulin gián tiếp
gây tổn thương cho thận thông qua quá trình xơ
vữa động mạch hệ thống. Những phát hiện của
một nghiên cứu bằng cách sử dụng các tiêu
chuẩn vàng xác nhận mối quan hệ chặt chẽ và
độc lập giữa mức độ nghiêm trọng của kháng
insulin và microalbuminuria(7), nhưng nhiều
nghiên cứu hiện nay giữa đề kháng insulin và
bệnh thận ĐTĐ đã được ghi nhận bằng cách sử
dụng một phép đo gián tiếp sự đề kháng
insulin. Trước đó nghiên cứu thực hiện ở các
bệnh nhân ĐTĐ typ 1 đã cho thấy giảm cân, tập
thể dục có thể phòng ngừa bệnh thận ĐTĐ, làm
giảm hoặc ngăn ngừa kháng insulin(8).
Vì vậy, thay đổi lối sống như chế độ ăn uống
thích hợp và tập thể dục, bỏ thuốc lá có thể làm
giảm kháng insulin và do đó lần lượt có thể
ngăn ngừa bệnh thận ĐTĐ. Những hạn chế của
nghiên cứu này là một nghiên cứu cắt ngang nó
không thể xác nhận mối quan hệ thời gian giữa
đề kháng insulin và mức độ của bệnh thận ĐTĐ.
KẾT LUẬN
Kháng insulin ở BN ĐTĐ typ 2 liên quan với
tổn thương thận trong đó nồng độ insulin, C‐
peptid, kháng insulin tăng dần, chỉ số nhạy cảm
insulin và chức năng tế bào beta giảm dần theo
thứ tự từ BN có vi đạm niệu, albumin niệu và
suy thận mạn tính. Cần thực hiện các nghiên
cứu tiền cứu với cỡ mẫu lớn hơn, thời gian theo
dõi kéo dài hơn để tìm kiếm mối quan hệ nhân
quả giữa kháng insulin và tổn thương thận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Becker B, Kronenberg F, Kielstein JT et al (2005). “Renal
insulin resistance syndrome, adiponectin and cardiovascular
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 472
events in patients with kidney disease: the mild and moderate
kidney disease study”. J Am Soc Nephrol;16:1091‐8.
2. Hawkins M and Rosseti L (2005). “Insulin Resistance and Its
Role in the Pathogenesis of Type 2 Diabetes, Fourteenth
Edition”, Joslin Diabetes Center, pp. 426‐442.
3. Kramer H. J., Nguyen Q. D., Curhan G., et al (2003). ʺRenal
Insuffciency in the Absence of Albuminuria and Retinopathy
Among Adults With type 2 Diabetes Mellitusʺ, JAMA,
289(24), pp. 3273‐3277.
4. Kubo M, Kiyohara, Kato I (1999). “Effect of hyperinsulinemia
on renal function in a general Japanese population: The
Hisayama study”. Kidney Int; 55: 2450‐6.
5. Nguyễn Đức Ngọ (2007). “Nghiên cứu tình trạng kháng
insulin và mối tương quan với C‐peptide huyết thanh ở
bệnh nhân ĐTĐ typ 2”. Hội nghị khoa học toàn quốc
chuyên ngành nội tiết và chuyển hóa lần thứ 3”. Nhà xuất
bản y học. Tr 796‐803.
6. Parvanova AI, Trevisan R, Iliev IP et al (2006).“Insulin
resistance and microalbuminuria”. Diabetes 2006;55:1456‐62.
7. Rossing K., Christensen P. K., Hovind P. et al (2004).
ʺProcession of nephropathy in type 2 diabetic patientsʺ,
Kidney International 66, pp. 1596‐1605.
8. Svensson M, Eriksson JW (2006). “Insulin resistance in
diabetic nephropathy – cause or consequence?” Diab Metab
Res Rev;22:401‐10.
9. Vedovato M, Dodesini AR, Lepore G et al (2004). “Insulin
resistance as a progression promoter in diabetic
nephropathy”. Diabetologia 2004;47:A21.
10. Vijay Viswananthan, Priyanka Tilak, Satyavani Kumpatia
(2010). “Insulin Resistance at different Stages of Diabetic
kidney Disease in India”. Journal of The Association of
Physicians of India; 58: 378‐ 380.
Ngày nhận bài báo: 11/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 468_1164.pdf