Khảo sát kiểu gien apo e4 trên người suy giảm nhận thức nhẹ

Mở đầu: Hiện nay số người bị sa sút trí tuệ (SSTT) ngày càng gia tăng trên thế giới, trong đó bệnh

Alzheimer (AD – Alzheimer’s Disease) là nguyên nhân thường gặp nhất. Kiểu gien APO E4 là yếu tố nguy

cơ về di truyền. Suy giảm nhận thức nhẹ (MCI – Mild Cognitive Impairment) được xem là giai đoạn sớm

của SSTT.

Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kiểu gien APO E4 trên MCI.

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.

Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi gồm 31 nam và 54 nữ, tuổi trung bình 58,6 tuổi, nhóm tuổi thường

gặp nhất là từ 50‐59 tuổi (37,6%). Tỉ lệ uống rượu bia là 30,6%; hút thuốc lá 17,6%; tập thể dục thể thao

74,1%. Về các bệnh lý đi kèm: 61,2% có tăng huyết áp (THA); 56,5% có rối loạn chuyển hóa (RLCH) lipid; và

17,6% có đái tháo đường (ĐTĐ). Tỉ lệ có tiền căn gia đình về giảm trí nhớ là 11,8%. Các triệu chứng thường

gặp nhất là các rối loạn về trí nhớ, chiếm 94,1% và các rối loạn về khí sắc/hành vi/cá tính, chiếm 62,4%. Các

triệu chứng khác ít gặp hơn: các rối loạn về kỹ năng giải quyết vấn đề 32,9%; các rối loạn về kỹ năng hoạt động

28,2%; các rối loạn về kỹ năng nhận biết và tập trung 24,7%; các rối loạn về kỹ năng ngôn ngữ và toán học

14,1%. Điểm MMSE trung bình là 26,8 điểm.

pdf6 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 601 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Khảo sát kiểu gien apo e4 trên người suy giảm nhận thức nhẹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 544 KHẢO SÁT KIỂU GIEN APO E4 TRÊN NGƯỜI SUY GIẢM NHẬN THỨC NHẸ  Vũ Anh Nhị*, Nguyễn Linh**  TÓM TẮT  Mở đầu: Hiện nay số người bị sa sút trí tuệ (SSTT) ngày càng gia tăng trên thế giới, trong đó bệnh  Alzheimer (AD – Alzheimer’s Disease) là nguyên nhân thường gặp nhất. Kiểu gien APO E4 là yếu tố nguy  cơ về di truyền. Suy giảm nhận thức nhẹ (MCI – Mild Cognitive Impairment) được xem là giai đoạn sớm  của SSTT.  Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kiểu gien APO E4 trên MCI.  Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.  Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi gồm 31 nam và 54 nữ, tuổi trung bình 58,6 tuổi, nhóm tuổi thường  gặp nhất  là  từ 50‐59  tuổi  (37,6%). Tỉ  lệ uống  rượu bia  là 30,6%; hút  thuốc  lá 17,6%;  tập  thể dục  thể  thao  74,1%. Về các bệnh lý đi kèm: 61,2% có tăng huyết áp (THA); 56,5% có rối loạn chuyển hóa (RLCH) lipid; và  17,6% có đái tháo đường (ĐTĐ). Tỉ lệ có tiền căn gia đình về giảm trí nhớ là 11,8%. Các triệu chứng thường  gặp nhất là các rối loạn về trí nhớ, chiếm 94,1% và các rối loạn về khí sắc/hành vi/cá tính, chiếm 62,4%. Các  triệu chứng khác ít gặp hơn: các rối loạn về kỹ năng giải quyết vấn đề 32,9%; các rối loạn về kỹ năng hoạt động  28,2%; các rối loạn về kỹ năng nhận biết và tập trung 24,7%; các rối loạn về kỹ năng ngôn ngữ và toán học  14,1%. Điểm MMSE  trung bình  là 26,8 điểm. Kiểu gien APO E4 chiếm  tỉ  lệ 12,9%  (11/85). Không có mối  tương quan giữa kiểu gien APO E4 và giới tính; giữa kiểu gien APO E4 với THA, ĐTĐ, RLCH lipid, tiền căn  gia đình về giảm trí nhớ; và giữa kiểu gien APO E4 với triệu chứng giảm trí nhớ và điểm số MMSE.  Kết luận: Tỉ lệ kiểu gien APO E4 trên MCI là 12,9%. Chúng tôi không tìm thấy mối tương quan giữa kiểu  gien APO E4 với giới tính cũng như với các yếu tố nguy cơ khác như THA, ĐTĐ, RLCH lipid, tiền căn gia  đình về giảm trí nhớ, tình trạng giảm trí nhớ và điểm số MMSE.  Từ khóa: Kiểu gien APO E4, suy giảm nhận thức nhẹ, bệnh Alzheimer, sa sút trí tuệ.  ABSTRACT  STUDY OF APO E4 GENOTYPE IN PERSONS WITH MILD COGNITIVE IMPAIRMENT  Vu Anh Nhi, Nguyen Linh   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 544 ‐ 549  Background: The prevalence of dementia  is  increased  in the world, Alzheimer’s disease (AD)  is the most  common cause. APO E4 genotype is genetic risk factor. Mild cognitive impairment (MCI) is considered the early  state of dementia.  Objective: To evaluate the APO E4 genotype in persons with MCI.  Methods: Descriptive cross sectional study.  Results: Our study included 31 males and 54 females, the average age was 58.6 years. Majority of patients  were  found  to  be  in  the  fifth  to  sixth  decade  of  life  (37.6%). The prevalence  of  alcohol drinking was 30.6%;  cigarette smoking 17.6%; physical exercise 74.1%. 61.2% of patients had hypertension, 56.5% had dyslipidemia;  and 17.6% had diabetes. The prevalence of family history of memory impairment was 11.8%. The most frequent  symptoms  were  memory  decline  (94.1%),  and  disorders  of  mood/behavior/personality  (62.4%).  The  other  * Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM ** Khoa Nội thần kinh Bệnh viện Nguyễn Trãi  Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Linh ĐT: 0913626936 Email: bslinh@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Thần Kinh  545 symptoms were disorders of problem solving ability (32.9%); disorders of executive function (28.2%); disorders of  attention/concentration (24.7%); disorders of language and calculation (14.1%). The average MMSE score was  26.8. The APO E4 genotype was present  in 12.9%  of patients. There was not  association  between APO E4  genotype and sex; between APO E4 genotype and hypertension, diabetes, dyslipidemia, family history of memory  impairment; and between APO E4 genotype and memory impairment, MMSE score.  Conclusion: The prevalence of APO E4 genotype in MCI was 12.9%. There was not association between  APO E4 genotype and sex or other risk  factors, such as hypertension, diabetes, dyslipidemia,  family history of  memory impairment, state of memory impairment and MMSE score.  Key words: APO E4 genotype, mild cognitive impairment, Alzheimer’s disease, dementia.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Hiện  nay  số  người  bị  sa  sút  trí  tuệ  (SSTT)  ngày  càng  gia  tăng  trên  thế  giới  và  là nguyên  nhân hàng đầu gây mất khả năng hoạt động ở  người cao tuổi, trong đó bệnh Alzheimer (AD –  Alzheimer’s  Disease)  là  nguyên  nhân  thường  gặp nhất của SSTT, chiếm khoảng 70% trong tất  cả  các  bệnh  nhân  bị  SSTT.  Chi  phí  chăm  sóc,  điều  trị cho những bệnh nhân AD  rất  lớn, ước  tính  khoảng  trên  100  tỷ USD/năm(18). Việc  xác  định  các  yếu  tố  nguy  cơ  của AD  giúp  phòng  ngừa và điều trị sớm, cải thiện chất  lượng cuộc  sống, giảm chi phí điều trị.  Vai  trò  của gien APO E  trên NST  19  được  xem  là  yếu  tố  nguy  cơ  về di  truyền,  trong  đó  APO E4 là alen làm tăng nguy cơ, ngược lại alen  E2  làm  giảm  nguy  cơ  bị AD,  nếu mang  cùng  một cặp alen APO E 4/4 tăng nguy cơ AD 51% ở  nam và 60% ở nữ, mang một alen APO E 4  thì  tăng nguy cơ AD 23% ở nam và 30% ở nữ (8).  Suy  giảm  nhận  thức  nhẹ  (MCI  –  Mild  Cognitive  Impairment)  được  xem  là  giai  đoạn  chuyển tiếp giữa thay đổi nhận thức do tuổi già  và những đặc điểm  lâm sàng của SSTT,  là giai  đoạn tiền triệu của AD(18).  Hiện nay có rất nhiều nhà nghiên cứu trên  thế giới đang khảo sát các yếu tố nguy cơ trên  MCI với mong muốn phát hiện  sớm và ngăn  ngừa  tiến  triển  thành AD. Tỉ  lệ APO E4  trên  MCI  đã  và  đang  được  nghiên  cứu  rất  nhiều  trên thế giới.  Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào khảo  sát tỉ lệ APO E4 trên MCI, do đó mục đích tiến  hành nghiên cứu của chúng  tôi nhằm khảo sát  kiểu  gien APO  E4  trên  người  suy  giảm  nhận  thức nhẹ để theo dõi và điều trị sớm, ngăn ngừa  tiến triển đến AD.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối  tượng nghiên  cứu  là  tất  cả  bệnh  nhân  MCI đến khám tại phòng khám/khoa Thần Kinh  hoặc  đang nằm  điều  trị  tại  bệnh  viện Nguyễn  Trãi  từ  tháng  7/2012  đến  tháng  5/2013.  Tiêu  chuẩn chọn bệnh là người có than phiền về giảm  trí nhớ và/hoặc giảm các chức năng nhận  thức  khác kèm với MMSE 25‐28 điểm và IADL bình  thường. Tiêu chuẩn loại trừ gồm rối loạn tri giác,  tâm  thần, động kinh, chấn  thương đầu cấp,  tai  biến mạch máu não  cấp, giảm  thính  lực và  thị  lực nặng, mù chữ.  Nghiên  cứu mô  tả  cắt  ngang. Các  biến  số  gồm: giới, tuổi; uống rượu bia, hút thuốc lá, tập  thể dục thể thao, các bệnh lý kèm theo, tiền căn  gia  đình  về  giảm  trí nhớ;  các  chức  năng  nhận  thức bị suy giảm, điểm MMSE; và kiểu gen APO  E4. Các  số  liệu  được  xử  lý  và  phân  tích  bằng  phần mềm STATA 10 và EXCEL 2007, khảo sát  mối  tương  quan  giữa  suy  giảm  nhận  thức  và  kiểu gen APO E4. Biến số định  tính được  trình  bày  dưới  dạng  tần  số,  tỷ  lệ  %.  Biến  số  định  lượng  được  trình  bày  dưới  dạng  giá  trị  trung  bình và độ  lệch chuẩn. Sự tương quan giữa các  biến  số nếu  có  được khảo  sát bằng phép kiểm  chi bình phương và phép kiểm chính xác Fisher  cho các biến định tính; phép kiểm t‐student cho  các biến định lượng. Giá trị p ≤0,05 được xem là  có ý nghĩa thống kê.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 546 KẾT QUẢ  Đặc điểm về dịch tễ học, yếu tố nguy cơ và  suy giảm nhận thức của nhóm nghiên cứu:  Nghiên cứu của chúng tôi có tất cả 85 trường  hợp MCI. Trong đó, giới nam chiếm 36,5%, thấp  hơn so với giới nữ, chiếm 63,5% (tỉ lệ nam:nữ là  0,57:1). Sự khác biệt giữa  tỉ  lệ nam và nữ  trong  mẫu nghiên cứu là có ý nghĩa thống kê với p =  0,0126 <0,05. Tuổi trung bình là 58,6 ± 11,5 tuổi.  Nhóm  tuổi  thường  gặp  nhất  là  từ  50‐59  tuổi,  chiếm tỉ lệ 37,6%.  Tỉ  lệ uống  rượu  bia  là  30,6%;  hút  thuốc  lá  17,6%; tập thể dục thể thao 74,1%. Về các bệnh lý  đi kèm: 61,2% có THA; 56,5% có RLCH lipid; và  17,6%  có  ĐTĐ.  11,8%  có  tiền  căn  gia  đình  về  giảm trí nhớ.  Các  triệu chứng  thường gặp nhất  là các  rối  loạn về  trí nhớ, chiếm 94,1% và các rối  loạn về  khí  sắc/hành vi/cá  tính,  chiếm 62,4%. Các  triệu  chứng khác  ít gặp hơn: các rối  loạn về kỹ năng  giải quyết vấn đề 32,9%; các rối loạn về kỹ năng  hoạt động 28,2%; các rối  loạn về kỹ năng nhận  biết và tập trung 24,7%; các rối loạn về kỹ năng  ngôn ngữ và toán học 14,1%. Điểm MMSE trung  bình là 26,8 ± 1,3 điểm.  Tỉ lệ kiểu gien APO E4  Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi, kiểu gien  APO E4 chiếm tỉ lệ 12,9% (11/85).  Sự tương quan giữa kiểu gien APO E4 với  các đặc điểm suy giảm nhận thức và yếu tố  nguy cơ mạch máu của nhóm nghiên cứu  Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có  mối tương quan giữa kiểu gien APO E4 và giới  tính  (OR = 1,62; 95%CI: 0,35‐10,23; p  =  0,4970  >0,05).  Chúng tôi cũng không tìm thấy mối tương  quan  giữa  kiểu  gien  APO  E4  với  THA  (OR=0,48;  95%CI:  0,11‐2,10;  p  =  0,2515  >0,05);  giữa  kiểu  gien APO  E4  với  ĐTĐ  (p  =  0,0999  >0,05); giữa kiểu gien APO E4 với RLCH lipid  (OR = 0,91; 95%CI: 0,21‐4,15; p = 0,8902 >0,05);  và giữa kiểu gien APO E4 và tiền căn gia đình  về giảm  trí nhớ  (OR  =  0,72;  95%CI:  0,01‐6,34;  p=0,7680 >0,05).  Các  số  liệu  của  chúng  tôi  cũng  cho  thấy  không có mối  tương quan giữa kiểu gien APO  E4 và triệu chứng giảm trí nhớ (p = 0,3740 >0,05).  Điểm MMSE  trung  bình  trong  nhóm  có  kiểu  gien APO E4  là 27,5 ± 1,0 điểm và  trong nhóm  không có kiểu gien APO E4 là 26,7 ± 1,3 điểm. Sự  khác biệt này cũng không có ý nghĩa  thống kê  với p = 0,0916 >0,05.  BÀN LUẬN  Đặc điểm về dịch tễ học, yếu tố nguy cơ và  suy giảm nhận thức của nhóm nghiên cứu:  Chúng tôi ghi nhận giới nữ chiếm 63,5%, cao  hơn  so  với  giới  nam,  36,5%;  tỉ  lệ  nam:nữ  là  0,57:1; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p  =  0,0126  <0,05. Kết quả này  cũng phù hợp với  nhiều  tác  giả  khác,  như  Kivipelto(10),  Artero(2).  Nghiên cứu của Luck T (2007) cho thấy nguy cơ  MCI  của giới nữ nhiều hơn gấp  1.4  lần  so với  giới  nam  (OR  =  1,36;  95%:  1,14‐1,63)(12).  Tuy  nhiên, trong thời gian gần đây có một số tác giả  ghi nhận  tỉ  lệ MCI  gặp  ở  giới nam nhiều hơn  giới  nữ,  như  Geda  YE  (2010)(7)  và  Robert  RO  (2010)(16). Tác giả Petersen RC (2010) báo cáo tỉ lệ  nữ  trong nhóm MCI  là 41,6% và  cho  thấy giới  nam  là  yếu  tố  làm  tăng  nguy  cơ MCI(14).  Tuổi  trung bình của các đối  tượng  trong nghiên cứu  của chúng  tôi  là 58,6 ± 11,5  tuổi, và nhóm  tuổi  thường gặp nhất  là  từ 50‐59, chiếm  tỉ  lệ 37,6%.  Chúng  tôi  nhận  thấy  hầu  hết  các  tác  giả  khác  đều báo cáo tuổi của các đối tượng MCI khá cao.  Trong nghiên cứu của Đỗ Văn Thắng, tuổi trung  bình  là  71,2  tuổi và nhóm  tuổi  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  là 71‐80  tuổi(5). Tuổi  trung bình của nhóm  MCI  trong nghiên cứu của Luck T  là 80,2 ± 3,6  tuổi (12), và trong nghiên cứu của Ritchie K là 77,8  ± 5,73 tuổi(15). Số liệu từ nghiên cứu của Tervo S  cho  thấy  tuổi  cao  là  yếu  tố  làm  tăng  nguy  cơ  MCI(17). Tác giả Artero S còn ghi nhận  tuổi cao  làm tăng nguy cơ tiến triển đến SSTT của các đối  tượng MCI(2). Tuổi trung bình của các đối tượng  trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn hẳn so  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Thần Kinh  547 với các nghiên cứu khác, do: chúng tôi tiến hành  nghiên cứu với cỡ mẫu nhỏ và tiêu chuẩn chọn  mẫu không giới hạn độ tuổi. Hầu hết các nghiên  cứu về MCI  trên  thế giới  đều  chọn những  đối  tượng nghiên cứu trên 65 tuổi, do đó tuổi trung  bình  trong  các  nghiên  cứu  này  tương  đối  cao.  Trong khi đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tại  bệnh  viện  Nguyễn  Trãi,  với  đối  tượng  bệnh  nhân ở đây phần  lớn  là cán bộ công nhân viên  và hưu trí. Chúng tôi ghi nhận nhóm tuổi chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  là  50‐59  tuổi,  đây  là  những  đối  tượng vừa mới nghỉ hưu thường có những thay  đổi về môi trường, sinh hoạt, tâm sinh lý, do đó  sẽ dễ nhận  thấy và có  than phiền về mặt nhận  thức,  trí nhớ và do đó những đối  tượng này  dễ được đưa vào mẫu nghiên cứu.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỉ  lệ  có  uống  rượu  bia  và  hút  thuốc  lá  tương  ứng  là  30,6% và 17,6%. Kết quả này tương đối thấp so  với các tác giả khác như Kivipelto M (ghi nhận  các  tỉ  lệ  tương  ứng  là  62,5%  và  35,4%)(10)  hay  Ritchie K (79,7% và 33,9%)(15). Điều này có thể lý  giải là do: thứ nhất, tỉ lệ nữ nhiều hơn nam trong  mẫu nghiên cứu; thứ hai, đối tượng nghiên cứu  của chúng tôi phần lớn là các cán bộ công nhân  viên chức đã nghỉ hưu, có trình độ học vấn cao  và có hiểu biết về kiến thức y học phổ thông, có  ý thức tự bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Cũng vì  vậy nên  chúng  tôi ghi nhận  tỉ  lệ  có  tập TDTT  khá cao, 74,1%. Kết quả này của chúng tôi tương  tự với của Geda YE, tác giả này ghi nhận 70,7%  nhóm MCI  có  tập  TDTT,  đồng  thời  cũng  cho  thấy vận động thể lực mức độ trung bình có thể  làm giảm 39% nguy cơ MCI (OR = 0,61; 95%CI:  0,43‐0,88)(7). Tuy nhiên, nhiều nghiên  cứu  khác  như của Artero S (2) và Robert RO (16) lại báo cáo tỉ  lệ này thấp hơn, chỉ khoảng 30%. Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỉ  lệ  THA  là  61,2%, RLCH  lipid 56,5% và ĐTĐ 17,6%. Tác giả Diệp Trọng  Khải cũng ghi nhận các tỉ lệ tương ứng là 47,8%,  21,7%  và  8,7%(4).  Tỉ  lệ  THA  trong  nhóm  đối  tượng MCI  thay  đổi  rất nhiều giữa  các nghiên  cứu  khác  nhau  trên  thế  giới  như Kivipelto M  (26,8%)(10),  Artero  S  (78,6%)(2),  Ritchie  K  (63,8%)(15). Sự khác biệt này có thể do các tác giả  áp dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán MCI và THA  khác nhau. Chúng tôi nhận thấy, các tác giả khác  trên thế giới khi nghiên cứu về tỉ  lệ ĐTĐ trong  nhóm MCI cũng báo cáo những kết quả  tương  tự  trong khoảng  từ 10‐30%. Tỉ  lệ ĐTĐ ở nhóm  MCI  trong nghiên  cứu  của Luck T  là  24,5%(12),  của  Ritchie  K  là  19%(15)  và  của  Robert  RO  là  13,5%(16). Các tác giả Artero S (2) và Li J(11) còn cho  thấy ĐTĐ làm tăng nguy cơ MCI và tăng nguy  cơ  tiến  triển  đến SSTT và AD  ở  các  đối  tượng  MCI.  Tỉ  lệ  RLCH  lipid  trong  nghiên  cứu  của  chúng tôi là 56,5%, cũng gần tương tự với các tác  giả  khác  trên  thế  giới  như  Luck  T  (55,9%)(12),  Artero S (59%)(2), Robert RO (50,3%)(16) và Ritchie  K  (53,7%)(15). Nghiên  cứu  của  Li  J  khẳng  định  RLCH  lipid  làm  tăng nguy  cơ MCI,  tăng nguy  cơ tiến triển đến SSTT và AD ở đối tượng MCI,  và việc điều trị tình trạng RLCH lipid giúp làm  giảm nguy cơ này(11). Chúng tôi ghi nhận 11,8%  các trường hợp có tiền căn gia đình về giảm trí  nhớ. Tác  giả Andrawis  JP  báo  cáo  tỉ  lệ  này  là  44%(1). Nghiên cứu của chúng  tôi ghi nhận  tỉ  lệ  này khá thấp, do: thứ nhất, cỡ mẫu nhỏ; thứ hai,  chúng  tôi  lấy  thông  tin  về  tiền  căn  gia  đình  thông  qua  lời  khai  của  đối  tượng  nghiên  cứu,  không  trực  tiếp đánh giá chức năng nhận  thức  của người  thân của đối  tượng, do đó có  thể đã  bỏ sót nhiều trường hợp.  Chúng tôi ghi nhận các triệu chứng thường  gặp nhất là các rối loạn về trí nhớ (94,1%) và các  rối  loạn về khí  sắc/hành vi/cá  tính  (62,4%);  các  triệu chứng khác ít gặp hơn như các rối loạn về  giải  quyết  vấn  đề  (32,9%),  các  rối  loạn  về  kỹ  năng  hoạt  động  (28,2%),  các  rối  loạn  về  nhận  biết và tập trung (24,7%), các rối loạn về kỹ năng  ngôn  ngữ  và  toán  học  (14,1%).  Tác  giả  Diệp  Trọng Khải ghi nhận tỉ  lệ có rối  loạn về trí nhớ  trong nhóm MCI là 95,7%(4). Trong khi đó 100%  các  đối  tượng  trong  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Kim Việt được ghi nhận là có rối loạn về trí nhớ  và  65,7%  có  rối  loạn  về  hành  vi/tác  phong(13).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  điểm MMSE  trung bình là 26,8 ± 1,3 điểm. Kết quả này cũng  gần  tương  tự với  các nghiên  cứu về MCI khác  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 548 như  của  Kivipelto  M  (26,3  ±  1,9  điểm)(10),  Devanand DP (27,6 ± 2 điểm)(3).   Tỉ lệ kiểu gien APO E4  Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi, kiểu gien  APO E4 chiếm tỉ lệ 12,9%. Kết quả này thấp hơn  so  với  nhiều  tác  giả  khác  trên  thế  giới,  như  Robert RO (33,3%)(16), Ritchie K (31,6%)(15). Nhiều  tác giả đã đưa ra kết luận rằng kiểu gien APO E4  làm  tăng nguy cơ MCI như Luck T  (OR = 1,40;  95%CI: 1,12‐1,76)(12) và Petersen RC  (OR = 1,68;  95%CI:  1,26‐2,24)(14).  Ngoài  ra,  các  nghiên  cứu  khác trên thế giới còn cho thấy những đối tượng  đã  được  chẩn  đoán  là MCI  nếu  có  kiểu  gien  APO E4 thì sẽ có nguy cơ cao hơn tiến triển đến  SSTT và AD. Nghiên cứu của Artero S đã chứng  minh được kiểu gien APO E4 là yếu tố làm tăng  nguy cơ tiến triển đến SSTT trong nhóm MCI ở  cả hai giới nam (OR = 3,15; 95%CI: 1,74‐5,70) và  nữ  (OR  =  2,34;  95%CI:  1,38‐3,96)(2).  Gần  đây,  nghiên  cứu  của Wang PN  cũng ghi nhận kiểu  gien APO E4 làm tăng tỉ lệ và rút ngắn thời gian  tiến triển đến AD ở các đối tượng MCI (HR = 2;  95%CI: 1,2‐3,2)(19). So với các tác giả trên, nghiên  cứu của chúng tôi có nhiều hạn chế hơn. Trước  hết,  do  cỡ mẫu  nhỏ  và  thời  gian  nghiên  cứu  ngắn,  tỉ  lệ kiểu gien APO E4 của chúng  tôi chỉ  khoảng 12,9%, thấp hơn nhiều so với các nghiên  cứu khác. Ngoài ra, chúng tôi tiến hành nghiên  cứu theo phương pháp cắt ngang mô tả, không  có nhóm chứng và không có thời gian  theo dõi  tiến  triển của các đối  tượng nghiên cứu, do đó  chúng  tôi  chỉ  báo  cáo  tỉ  lệ  kiểu  gien APO  E4  trong nhóm đối tượng nghiên cứu tại thời điểm  nghiên cứu, không đưa ra kết  luận về mối  liên  quan giữa kiểu gien này và  tần  suất hiện mắc  cũng như tiến triển của các đối tượng MCI.  Sự tương quan giữa kiểu gien APO E4 với  các đặc điểm suy giảm nhận thức và yếu tố  nguy cơ mạch máu của nhóm nghiên cứu  Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi, không  có  mối tương quan giữa kiểu gien APO E4 và giới  tính. Kết quả này phù hợp với  các nghiên  cứu  của Luck T(12) và Petersen RC(14). Chúng tôi cũng  ghi nhận  không  có mối  tương  quan  giữa  kiểu  gien APO E4 với các bệnh lý đi kèm như THA,  ĐTĐ và RLCH lipid. Nghiên cứu của Kalmjin S  cũng không ghi nhận mối tương quan giữa kiểu  gien APO E4 với THA và ĐTĐ, tuy nhiên tác giả  lại nhận thấy có mối tương quan giữa kiểu gien  APO E4 với RLCH lipid, đồng thời còn cho thấy,  khi  ĐTĐ  hoặc  tăng  cholesterol  toàn  phần  kết  hợp với kiểu gien APO E4 sẽ làm tăng nguy cơ  suy giảm nhận  thức  lên nhiều hơn  so với hiệu  quả của một mình kiểu gien APO E4(9). Tác giả  Tervo S cũng đề cập đến hiệu quả phối hợp của  kiểu gien APO E4 và THA  trong việc  làm  tăng  nguy  cơ  MCI(17).  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  không  tìm  thấy mối  liên  quan  giữa  kiểu  gien  APO E4 và tiền căn gia đình về giảm trí nhớ. Kết  quả này phù hợp với nghiên  cứu  của Xu G(20).  Tuy nhiên, nghiên cứu của Andrawis JP  lại ghi  nhận tỉ  lệ có tiền căn gia đình về SSTT ở nhóm  có kiểu gien APO E4 cao hơn có ý nghĩa so với  nhóm không có kiểu gien này(1).   Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  không  có  mối liên quan giữa kiểu gien APO E4 và giảm trí  nhớ. Có  nhiều  công  trình  nghiên  cứu  trên  thế  giới  đã ghi nhận mối  liên quan giữa kiểu gien  APO E4 và giảm trí nhớ. Nghiên cứu của Farlow  MR  cho  thấy  những  bệnh  nhân MCI  có  kiểu  gien APO  E4  sẽ  có  suy  giảm  trí  nhớ  và  hoạt  động chức năng nhiều hơn so với những bệnh  nhân MCI không có kiểu gien APO E4(6). Nghiên  cứu của chúng tôi không ghi nhận được sự liên  quan này, có thể do chúng tôi tiến hành nghiên  cứu  với  cỡ  mẫu  nhỏ.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi không  có mối  tương quan giữa kiểu  gien APO E4  và  điểm  số MMSE. Kết  quả  này  cũng phù hợp với nghiên cứu của Kalmijn S(9) và  Devanand DP(3). Tuy nhiên,  tác giả Farlow MR  lại ghi nhận nhóm có kiểu gien APO E4 có điểm  số MMSE  thấp  hơn  có  ý  nghĩa  so  với  nhóm  không có kiểu gien APO E4(6).  KẾT LUẬN  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  gồm  85  trường  hợp MCI,  tuổi  trung bình  là 58,6, nhóm  tuổi  từ  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Thần Kinh  549 50‐59 thường gặp nhất, giới nữ chiếm tỉ lệ 63,5%,  cao hơn có ý nghĩa so với giới nam. Tỉ lệ có uống  rượu bia  là 30,6%, hút thuốc  lá  là 17,6%, có  tập  TDTT  là  74,1%.  Tỉ  lệ  THA  là  61,2%,  ĐTĐ  là  17,6%,  RLCH  lipid  là  56,5%.  Có  11,8%  các  trường hợp có tiền căn gia đình về giảm trí nhớ.  Về lâm sàng, các triệu chứng thường gặp nhất là  giảm trí nhớ (94,1%) và rối loạn về khí sắc, hành  vi, cá tính (62,4%). Điểm MMSE trung bình của  nhóm nghiên cứu là 26,8 điểm.  Kiểu gien APO E4 chiếm tỉ lệ 12,9%.  Không có mối liên quan giữa kiểu gien APO  E4 với giới tính cũng như với các yếu tố nguy cơ  khác như THA, ĐTĐ, RLCH  lipid,  tiền căn gia  đình về giảm trí nhớ, tình trạng giảm trí nhớ và  điểm số MMSE.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Andrawis JP, et al (2012). Effects of ApoE4 and maternal history  of dementia on hippocampal atrophy. Neurobiol Aging, 33(5):  856‐866.  2. Artero  S,  et  al  (2008).  Risk  profiles  for  mild  cognitive  impairment and progression to dementia are gender specific. J  Neurol Neurosurg Psychiatry, 79(9): 979‐984.  3. Devanand DP, et al (2005). Predictive utility of apolipoprotein E  genotype  for  Alzheimer  disease  in  outpatients  with  mild  cognitive impairment. Arch Neurol, 62(6): 975‐980.  4. Diệp Trọng Khải (2012). Đánh giá suy giảm nhận  thức và  tổn  thương não bằng cộng hưởng từ ở người lớn tuổi. Luận án Bác  sĩ  chuyên  khoa  cấp  II,  Trường  Đại  học  Y  Dược  TPHCM,  TPHCM.  5. Đỗ Văn Thắng (2007). Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và  trắc nghiệm thần kinh tâm lý ở bệnh nhân sa sút trí tuệ mạch  máu tại Viện Lão Khoa. Luận văn Bác sĩ chuyên khoa II, Trường  Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.  6. Farlow MR,  et  al  (2004).  Impact  of APOE  in mild  cognitive  impairment. Neurology, 63(10): 1898‐1901.  7. Geda  YE,  et  al  (2010).  Physical  exercise,  aging,  and  mild  cognitive impairment: a population‐based study. Arch Neurol,  67(1): 80‐86.  8. Genin  E,  et  al  (2011). APOE  and Alzheimer disease:  a major  gene  with  semi‐dominant  inheritance. Mol  Psychiatry,  16(9):  903‐907.  9. Kalmijn  S,  et  al  (1996).  Cerebrovascular  disease,  the  apolipoprotein e4 allele, and cognitive decline in a community‐ based study of elderly men. Stroke, 27(12): 2230‐2235.  10. Kivipelto M, et al (2001). Midlife vascular risk factors and late‐ life  mild  cognitive  impairment:  A  population‐based  study.  Neurology, 56(12): 1683‐1689.  11. Li J, et al (2011). Vascular risk factors promote conversion from  mild  cognitive  impairment  to Alzheimer  disease. Neurology,  76(17): 1485‐1491.  12. Luck  T,  et  al  (2007).  Mild  cognitive  impairment  in  general  practice: age‐specific prevalence and correlate results  from  the  German  study on ageing,  cognition and dementia  in primary  care patients  (AgeCoDe). Dement Geriatr Cogn Disord, 24(4):  307‐316.  13. Nguyễn Kim Việt (2004). Nghiên cứu chẩn đoán bệnh Alzheimer.  Luận án Tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.  14. Petersen  RC,  et  al  (2010).  Prevalence  of  mild  cognitive  impairment is higher in men. The Mayo Clinic Study of Aging.  Neurology, 75(10): 889‐897.  15. Ritchie  K,  et  al  (2010).  Retrospective  identification  and  characterization  of  mild  cognitive  impairment  from  a  prospective population cohort. Am  J Geriatr Psychiatry, 18(8):  692‐700.  16. Roberts  RO,  et  al  (2010).  Polyunsaturated  fatty  acids  and  reduced  odds  of  MCI:  the  Mayo  Clinic  Study  of  Aging.  J  Alzheimers Dis, 21(3): 853‐865.  17. Tervo  S,  et  al  (2004).  Incidence  and  risk  factors  for  mild  cognitive impairment: a population‐based three‐year follow‐up  study  of  cognitively  healthy  elderly  subjects. Dement Geriatr  Cogn Disord, 17(3): 196‐203.  18. Vũ Anh Nhị (2009). Suy giảm nhận thức. trong Vũ Anh Nhị. Sa  sút trí tuệ, 2 ed., pp. 18‐22. NXB Y học, TPHCM.  19. Wang  PN,  et  al  (2011). APOE  epsilon4  increases  the  risk  of  progression  from  amnestic  mild  cognitive  impairment  to  Alzheimerʹs disease among ethnic Chinese in Taiwan. J Neurol  Neurosurg Psychiatry, 82(2): 165‐169.  20. Xu  G,  et  al  (2009).  The  influence  of  parental  history  of  Alzheimerʹs  disease  and  apolipoprotein  E  epsilon4  on  the  BOLD signal during recognition memory. Brain, 132(Pt 2): 383‐ 391.  Ngày nhận bài báo: 01/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013  Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf544_5556.pdf
Tài liệu liên quan