Mở đầu: Tuyến thượng thận (TTT) là một trong những tuyến nội tiết quan trọng trong cơ thể. Các bệnh lý
TTT cũng vô cùng đa dạng. Việc xác định kích thước của TTT thông qua X‐quang cắt lớp điện toán là phương
pháp không xâm lấn và hữu ích giúp cho các nhà lâm sàng đưa ra các chẩn đoán xác định chính xác nhằm hướng
đến một liệu pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân.
Mục tiêu: Khảo sát hình dạng, kích thước trung bình: thân, chi trong và chi ngoài của tuyến thượng thận ở
người trưởng thành; So sánh sự khác biệt về chiều rộng của chi trong, chi ngoài và của thân tuyến thượng thận
ở người trưởng thành theo giới, theo tuổi và theo BMI.
Đối tượng – Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả, thực hiện trên 424 người Việt Nam >/= 18 tuổi,
được chụp CLĐT bụng có cản quang từ tháng 7/2012 đến tháng 1/2013, tại khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
8 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 466 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Khảo sát kích thước của tuyến thượng thận bình thường ở người trưởng thành trên x‐quang cắt lớp điện toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cứu của Sample và Sarti, tuy
chỉ thực hiện ở 34 mẫu nhưng lại phát hiện thêm
hình dạng L ngược, trong khi đó nghiên cứu của
chúng tôi không ghi nhận được hình ảnh này.
Như vậy, TTT không chỉ có hình Y ngược
mà hình dạng này chỉ chiếm đa số trong dân số.
Những hình dạng khác được ghi nhận trên X
quang CLĐT bao gồm: V ngược, đường thẳng,
tam giác và Lamda. Riêng hình ảnh Lamda chỉ
xuất hiện bên TTT (T).
Theo kết quả khảo sát (bảng 3), chiều rộng
lớn nhất của thân, chi ngoài, chi trong TTT (P)
lần lượt 4,70 mm (SD 0,83) với khoảng giới hạn
từ 2,5 đến 8 mm, 2,76 mm (SD 0,49) khoảng giới
hạn từ 1,5 đến 4,2 mm, 3,03 mm (SD 0,50),
khoảng giới hạn từ 1,7 đến 4,9 mm; và các kích
thước này của TTT (T) lần lượt là 5,12 mm (SD
1,00),với khoảng giới hạn từ 2,8 đến 4,8 mm, 3,16
mm (SD 0,65), khoảng giới hạn từ 1,8 đến 5 mm,
3,67 mm (SD 0,75), khoảng giới hạn từ 2,1 đến
5,8 mm. Những số đo này đều nhỏ hơn so với
kích thước đo được của tác giả Vincent ngoại trừ
giá trị của chi trong, tác giả Vincent đã báo cáo
kích thước TTT (P) 6,1 mm, 0,28 mm và 0,28;
TTT (T) 7,9 mm, 0,3 mm và 0,33 mm. Việc khác
biệt thể hiện khá rõ ở chiều rộng lớn nhất của
thân TTT. Nguyên nhân có thể do tác giả thực
hiện nghiên cứu bằng máy CLĐT với độ dày lát
cắt 10 mm, trong khi nghiên cứu của chúng tôi,
các dữ liệu được thu thập trên hình ảnh tái tạo
với độ dày 1 mm, có độ phân giải và tương phản
tốt hơn. Sự không đồng nhất này cũng có khả
năng do khác biệt về chủng tộc, người châu Âu
thường có sắc vóc to lớn hơn người châu Á, có lẽ
chính vì vậy mà kích thước của TTT trong
nghiên cứu của chúng tôi có phần nhỏ hơn so
với khảo sát của tác giả được thực hiện tại nước
Anh.
Khi so kết quả đo được với tác giả người
Trung Quốc, chúng tôi nhận thấy có sự phù hợp
về kích thước trung bình của phần thân TTT
giữa hai nghiên cứu. Trong khi đó, kết quả đo
hai chi ngoài và trong của nghiên cứu này cao
hơn so với của Gang Ma(4). Sự không tương thích
này có lẽ xảy ra do sự khác biệt về mặt phẳng
khảo sát. Chúng tôi sử dụng mặt phẳng ngang
để quan sát, còn nghiên cứu của Gang Ma dựa
trên mặt phẳng đứng ngang. Có khi yếu tố
chủng tộc cũng góp phần ảnh hưởng đến kết
quả nghiên cứu.
Cũng trên bảng 4, so sánh kích thước chi
trong và chi ngoài nhận thấy độ dày của chi
trong lớn hơn của chi ngoài rõ rệt với p < 0,01,
trên cả hai TTT. Trong khi đó, Vincent chỉ ghi
nhận sự khác biệt rõ bên TTT (T), còn TTT (P),
tuy trung bình độ dày cả hai chi đều là 2,8 mm
nhưng độ lệch chuẩn bên chi trong lớn hơn so
với chi ngoài, 0,08 mm so với 0,06 mm(13). Như
vậy, theo khảo sát của tác giả, trong một số
trường hợp chi trong vẫn có khả năng lớn hơn
chi ngoài.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chẩn Đoán Hình Ảnh 249
Khi so sánh kích thước thân đo được từ các
TTT có hình dạng khác nhau, chúng tôi nhận
thấy bên TTT (P) có sự khác biệt giữa TTT có
hình dạng Y ngược và V ngược, các chỉ số trung
bình lần lượt là 4,67 mm (S.D 0,84) và 5,13 mm
(S.D. 0,56) với p = 0,02. Tuy nhiên, khi so sánh số
đo này giữa dạng Y ngược với đường thẳng và
V ngược với dạng đường thẳng, chúng tôi
không tìm thấy được sự khác biệt rõ rệt (bảng 5).
Khi phân tích bên TTT (T), trung bình của thân
TTT giữa các dạng khác nhau không thể hiện sự
khác biệt, p = 0,32. Dạng Y ngược và V ngược
khác nhau chủ yếu ở phần thân, thân của V
ngược ngắn hơn so với Y ngược, có lẽ chính vì
thế mà độ dày của V ngược được củng cố và lớn
hơn dạng Y ngược.
Đối với độ dày chi ngoài của TTT, sự sai
khác về hình dạng TTT không liên quan đến sự
khác biệt về kích thước, trên cả hai TTT (p >
0,05).
Đối với chi trong của TTT, tuy bên TTT (P)
không có sự thay đổi về kích thước đáng kể
nhưng bên TTT (T), chúng tôi ghi nhận TTT có
dạng Lamda có độ dày của chi trong lớn hơn
dạng Y ngược, 4,56 mm (S.D. 0,72) và 3,66 mm
(S.D. 0,73), p < 0,01. Các cặp so sánh còn lại đều
không có sự khác nhau (bảng 6). Nguyên nhân
của sự khác biệt về độ dày có lẽ cũng do nhánh
chi trong của dạng Y ngược phát triển về chiều
dài nhiều hơn dạng Lamda nên về độ dày của
dạng Lamda chiếm ưu thế hơn.
Nhìn chung, sau khi khảo sát trên 424 đối
tượng, chúng tôi nhận thấy độ dày trung bình
của hai TTT (P) và (T) có sự khác biệt rõ rệt trên
cả ba độ dày thân, chi ngoài và chi trong, bên (T)
lớn hơn bên (P); độ dày của chi trong lớn hơn chi
ngoài trên cả hai TTT; TTT (P) có dạng V ngược
có độ dày của thân tuyến lớn hơn dạng Y ngược
và TTT (T) dạng Lamda có độ dày của chi trong
lớn hơn dạng Y ngược.
Hình ảnh của TTT giảm kích thước được
phát hiện trên X quang CLĐT cũng giúp hỗ trợ
các bác sĩ lâm sàng trong quá trình chẩn đoán
bệnh lý Addison, phát hiện kịp thời thiểu năng
TTT sau xuất huyết hay theo dõi tiến trình điều
trị và đáp ứng của bệnh nhân trong một số bệnh
u hạt, abcess.
KẾT LUẬN
TTT đa dạng về hình dạng, TTT (P) thường
gặp các dạng: Y ngược, V ngược, đường thẳng
và tam giác; TTT (T) có thêm dạng Lamda.
Trong đó dạng Y ngược thường gặp trên cả hai
TTT, 89,9% bên (P) và 92,7% bên (T).
Kích thước trung bình của thân, chi ngoài và
chi trong của TTT (P) lần lượt 4,7 mm (S.D. 0,83),
2,76 mm (S.D. 0,49), 3,03 mm (S.D. 0,50); của TTT
(T) 5,12 mm (S.D. 1,0), 3,16 mm (S.D. 0,65), 3,67
mm (S.D. 0,75).
TTT (T) có độ dày thân, chi ngoài và chi
trong lớn hơn TTT (P) có ý nghĩa thống kê.
Chi trong có kích thước lớn hơn chi ngoài
trên cả hai TTT (p < 0,01).
Thân TTT (P) dạng V ngược có độ dày lớn
hơn dạng Y ngược (p < 0,05).
Chi trong TTT (T) dạng Lamda có độ dày
lớn hơn dạng Y ngược (p< 0,05).
Tuổi, giới, BMI không ảnh hưởng đến độ
dày của thân và các chi của TTT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Birnholtz JC (1973). ʺUltrasound imaging of adrenal mass
lesions.ʺ radiology 109: 163‐166.
2. Davidson JK, Morley P, et al (1975). ʺadrenal venography and
ultrasound in the investigation of the adrenal gland: an
analysis of 53 cases.ʺ br j radiol 48: 435‐450.
3. Forsythe JK, Gosink BB, et al (1977). ʺultrasound in the
evaluation of adrenal metastases.ʺ j c u 5: 31‐34.
4. Gang MA (2008). ʺsectional anatomy of the adrenal gland in
the coronal plane.ʺ surg radiol anal 30: 271‐280.
5. Hattery RR, Sheedy PF 2nd, Stephens DH, van Heerden JA
(1981). ʺComputed tomography of the adrenal gland.ʺ
seminars in roemgenology 16(4): 290‐300.
6. Herbut PA (1952). Urologic pathology. Philadelphia, lea &
febiger.
7. Holm HH (1972). ʺUltrasonic scanning in the diagnosis of
space‐ocupying lesions of the upper abdomen.ʺ br j radiol 44:
24‐36.
8. Kehlet H, Blichert‐Toft M, et al (1976). ʺComparative study of
ultrasound, i‐19‐iodocholesterol scintigrahpy and
aortography in localizing adrenal lesions ʺ Br Med J 2(6037):
665‐667.
9. Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007). Nội tiết học đại
cương, nhà xuất bản y học.
10. Montagne JP, Kressel HY, Korobkin M, Moss AA (1978).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 250
ʺComputed tomography of the normal adrenal glands.ʺ am j
roentgnol 130(5): 963‐966.
11. Moulton JS, Moulton JS (1988). ʺCt of the adrenal glands.ʺ
seminars in roentgenology 23(4): 288‐303.
12. Soffer LS (1951). Diseases of the endocrine glands.
Philadelphia, lea & febiger.
13. Vincent JM, Morrison ID, et al (1994). ʺThe size of normal
adrenal glands on computed tomography.ʺ clinical radiology
49: 453‐455.
14. Wilms G, Baert A, et al (1979). ʺComputed tomography of the
normal adrenal glands: correlative study with autopsy
specimens.ʺ journal of computer assisted tomography 3(4):
467‐469.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 243_1218.pdf