Đặt vấn đề: Hiểu rõ các biến thể giải phẫu của mạch máu thận rất quan trọng, nhất là trước khi tiến hành
ghép thận, cắt thận bán phần, phẫu thuật mở, tái tạo mạch máu cho động mạch thận bị hẹp hoặc phình động mạch chủ bụng. Trong những năm gần đây, chụp mạch bằng X quang cắt lớp điện toán nhiều dãy đầu dò đã trở thành phương tiện chẩn đoán hình ảnh chủ yếu để khảo sát mạch máu thận và đầy thách thức với kĩ thuật chụp mạch qui ước. Đây là phương tiện khảo sát không xâm lấn, nhanh chóng và cung cấp những hình ảnh chính xác, chi tiết về giải phẫu và các biến thể của động mạch thận. Khảo sát số lượng mạch máu, kích thước, nguyên ủy của động mạch thận rất thuận lợi khi chụp mạch bằng X quang cắt lớp điện toán.
Mục đích: Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là khảo sát giải phẫu và các biến thể thường gặp của động
mạch thận ở người Việt Nam trưởng thành.
7 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 744 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Khảo sát giải phẫu bình thường và các biến thể của động mạch thận ở người trưởng thành bằng x quang cắt lớp điện toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu trên thế
giới (9,13).
Chúng tôi nhận thấy rằng, đường kính
động mạch thận chính nhỏ hơn khi có động
mạch thận phụ, tương đồng với báo cáo của
Ramadan(8) và Aytac(1), đã đặt ra câu hỏi là tại
các điểm cắt của đường kính động mạch thận
chính có thể quyết định sự xuất hiện của động
mạch thận phụ hay không?
Bảng 5. So sánh độ nhạy và độ đặc hiệu của chúng tôi với tác giả Ramadan(8) và Aytac (1)
Điểm cắt
(mm)
Độ nhạy (%) Độ đặc hiệu (%)
Chúng tôi Ramadan Aytac Chúng tôi Ramadan Aytac
4,85 83,3 54 93 77,3 87 64,6
4,65 45,8 48 80 94,5 91 80,5
4,15 33,3 26 53,3 98 99 98,8
Nếu tại điểm cắt đường kính của động
mạch thận chính là d= 4,15 mm thì độ nhạy
thấp nhất (33,3%), độ đặc hiệu cao nhất (98%),
giá trị tiên đoán dương (82,8%), tiên đoán âm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 256
(84%), điều này cho thấy rằng khả năng xuất
hiện của động mạch thận phụ với độ chính xác
là 82,8% khi đường kính động mạch thận
chính ≤ 4,15 mm và không có động mạch thận
phụ với độ chính xác là 84 % khi đường kính
động mạch thận chính ≥ 4,15 mm.
Bảng 7. So sánh giá trị tiên đoán dương, tiên đoán
âm của chúng tôi với tác giả Ramadan(8)
Điểm cắt
(mm)
Giá trị tiên đoán
dương
Giá trị tiên đoán âm
Chúng tôi Ramadan Chúng tôi Ramadan
4,85 50,8 58 94,3 85
4,65 70,2 64 86,1 84
4,15 82,8 90 84 80
Điểm cắt tốt nhất giữa các nhóm bệnh nhân
sử dụng DSA& MDCT(1), những nghiên cứu đã
cho thấy rằng khả năng có một động mạch thận
phụ cao khi đường kính động mạch thận chính
≤ 4,15 mm, thông tin này rất quan trọng trong
nghiên cứu của chúng tôi và các tác giả
Ramadan(8) và Aytac(1) nhằm hỗ trợ cho thực
hành lâm sàng.
Nghiên cứu của chúng tôi không phối hợp
nhiều phương tiện khảo sát hình ảnh khác như
chụp mạch số hóa xóa nền, cộng hưởng từ, tuy
nhiên X quang cắt lớp điện toán nhiều dãy đầu
thu thu nhận dữ liệu đẳng trường nên cho hình
ảnh gần giống với tình trạng thực. Theo y văn,
độ chính xác của MDCT gần bằng với DSA và tỉ
lệ xuất hiện động mạch thận phụ tương tự nhiều
nghiên cứu(1,8). Những thông tin thu được về có
hoặc không có động mạch thận phụ sử dụng
gián tiếp mô tả ở trên không thể loại trừ yêu cầu
quy tắc chụp mạch bằng X quang cắt lớp điện
toán hoặc cộng hưởng từ để đánh giá động
mạch trước khi phẫu thuật.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát 164 cặp thận ở người trưởng
thành Việt Nam, tương ứng với 328 quả thận
của 79 nam (48,1%), 85 nữ (51,9%), có độ tuổi từ
18 đến 50, chúng tôi đưa ra kết luận sau:
Nguyên ủy của động mạch thận chính đa số
xuất phát từ ngang mức thân sống L1 trở lên
chiếm tỉ lệ cao nhất, bên phải là 57,9 %, bên trái
là 49,4%. Chiều dài của động mạch thận chính
bên phải (38,26 ± 11 mm) luôn luôn dài hơn so
với bên trái (30,49 ± 9,75 mm). Đường kính của
động mạch thận chính bên phải (5,04 ± 0,52 mm)
nhỏ hơn so với bên trái (5,22 ± 0,83 mm).
Các biến thể động mạch thận: tỉ lệ chia
nhánh sớm của động mạch thận chính là 9,8%,
bên trái (15,8%) và bên phải (3,8%); tỉ lệ xuất
hiện động mạch thận phụ là 22%, bên trái
(27,4%) và bên phải (15,2%).
Nếu đường kính động mạch thận chính là
4,15 mm thì khả năng xuất hiện động mạch
thận phụ có độ đặc hiệu cao nhất (98%) và giá
trị tiên đoán dương cao nhất (82,8%), giá trị
tiên đoán âm cũng khá cao (84%). Nếu đường
kính động mạch thận chính là 4,85 mm thì khả
năng xuất hiện động mạch thận phụ có độ
nhạy cao nhất (83,3%), độ đặc hiệu (77,3%) và
giá trị tiên đoán dương (50,8%), giá trị tiên
đoán âm cao nhất (94,3 %).
KIẾN NGHỊ
Với kết quả nghiên cứu này, bước đầu đã
cho ra được những chỉ số về kích thước động
mạch thận. Theo số lượng chọn mẫu của chúng
tôi có lẽ đã đạt về mặt ý nghĩa thống kê so với
nhiều tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, số
lượng mẫu vẫn còn hạn chế so với dân số Việt
Nam. Vì thế, để có thể áp dụng cho toàn thể
người Việt Nam ta cần có những bước nghiên
cứu tiếp theo: mở rộng mẫu nghiên cứu, chọn
mẫu ngẫu nhiên theo cụm để mang tính đại
diện hơn và cần kết hợp với các chỉ số chiều cao,
cân nặng của đối tượng nghiên cứu để tìm sự
tương quan giữa các yếu tố này với kích thước
động mạch thận.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ khảo sát
biến thể động mạch thận, chúng tôi đề nghị
nghiên cứu mới khảo sát biến thể tĩnh mạch
thận và nghiên cứu về động mạch thận trên
người có các dị tật bẩm sinh thận: như thận
móng ngựa, thận đơn độc, thận lạc chỗ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chẩn Đoán Hình Ảnh 257
1. Aytac SK, and et al (2003), ʺCorrelation Between the Diameter
of the Main Renal Artery and the Presence of an Accessory
Renal Arteryʺ, J. Ultrasound Med., (17), p. 433‐439.
2. Holden A, Dukes P, and et al (2005), ʺAssessment of 100 live
potential renal donors for laparoscopic nephrectomy with
multi‐detector row helical CTʺ, Radiographics, p. 973‐ 980.
3. Khamanarong K, Utraravichien A, and et al (2004), ʺAnatomy
of renal arterial supplyʺ, Clin. Anat., (17), p. 34‐336.
4. Lê Văn Cường (1991), Các dạng và dị dạng của động mạch ở
người Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Y học, , tr. 123‐ 127.
5. Özkan U, Tercan F, and et al (2006), ʺRenal artery origins and
variations: angiographic evaluation of 855 consecutive
patientsʺ, Diagn Interv Radiol, (12), p. 183‐186.
6. Pierce M (2013), ʺCT angiography of living renal
transplantation donorsʺ, Radiology, (16), p. 1‐ 7.
7. Piyaporn A, and et al (2012), ʺRenal vascular variants in
living related renal donors: evaluation with CT
angiographyʺ, J Med Assoc Thai, (7), p. 941‐948.
8. Ramadan SU, Gökharman D, and et al (2010), ʺCan renal
dimensions and the main renal artery diameter indicate the
presence of an accessory renal artery? A 64 slice CT studyʺ,
Diagnostic and Interventional Radiology, (17), p. 266‐ 271.
9. Raman SS, Schulam PG, and et al (2007), ʺSurgically relevant
normal and variant renal parenchymal and vascular anatomy
in preoperative 16‐MDCT evaluation of potential
laparoscopic renal donorsʺ, AJR, (188), p. 105‐114.
10. Saldarriaga B, and et al (2008), ʺMorphological expression of
the renal artery. A direct anatomical study in a Colombian
half‐caste populationʺ, Int. J. Morphol, (26), p. 31‐38.
11. Trịnh Xuân Đàn (1999), Nghiên cứu giải phẫu hệ thống bể đài
thận và mạch máu, thần kinh thận của người Việt Nam trưởng
thành, Luận án tiến sĩ Y học, tr. 39‐ 76.
12. Nguyễn Trường Giang, Hoàng Mạnh An, Lê Trung Hải
(2012), ʺNhận xét một số bất thường về mạch máu thận ghép
qua 98 trường hợp tại Bệnh viện 103 QĐNDʺ, Y học thực hành
TP. Hồ Chí Minh, 16, tr. 17‐ 19.
13. Urban BA, Fishman EK, and et al (2001), ʺThree‐ dimensional
volume‐ rendered CT angiography of the renal arteries and
veins: normal anatomy, variants, and clinical applicationsʺ,
Radiographics, (21), p. 373‐386.
14. Võ Văn Hải (2012), Đặc điểm giải phẫu động mạch thận ở người
bình thường và người có bệnh lý khúc nối bể thận niệu quản, Luận
án Tiến Sĩ y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 251_8053.pdf