Mục tiêu: Khảo sát sự hiện diện và đặc điểm của ống hậu hàm trên hình ảnh CBCT ở xương hàm dưới
người Việt.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 91 hình ảnh CBCT được lưu trữ tại bộ môn Tia X, Khoa
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Ở vùng hậu hàm ghi nhận sự hiện diện của ống hậu
hàm, phân loại ống hậu hàm theo phân loại của Von Arx (2011), đo đạc các thông số khoảng cách A, chiều cao B,
đường kính C, đường kính F1, đường kính F2 và khoảng cách F2.
Kết quả: Trong số 91 hình ảnh CBCT khảo sát ghi nhận tỉ lệ cá thể có ống đôi ống răng dưới là 46,2%, tỉ lệ
cá thể có ống hậu hàm là 16,5%. Nghiên cứu ghi nhận ống hậu hàm loại B1 hiện diện nhiều nhất 44,4%, số ống
hậu hàm loại A1, B2, C lần lượt là 27,8%, 22,2%, 5,6% và không ghi nhận có ống hậu hàm loại A2. Khoảng
cách A bên phải dài hơn bên trái có ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự phân bố
ống hậu hàm theo giới và vị trí bên hàm.
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 649 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Khảo sát đặc điểm ống hậu hàm trên hình ảnh core beam ct của xương hàm dưới người việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 366
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM ỐNG HẬU HÀM TRÊN HÌNH ẢNH
CORE BEAM CT CỦA XƯƠNG HÀM DƯỚI NGƯỜI VIỆT
Nguyễn Thị Thùy Trang*, Lê Đức Lánh*, Phạm Thị Hương Loan*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự hiện diện và đặc điểm của ống hậu hàm trên hình ảnh CBCT ở xương hàm dưới
người Việt.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 91 hình ảnh CBCT được lưu trữ tại bộ môn Tia X, Khoa
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Ở vùng hậu hàm ghi nhận sự hiện diện của ống hậu
hàm, phân loại ống hậu hàm theo phân loại của Von Arx (2011), đo đạc các thông số khoảng cách A, chiều cao B,
đường kính C, đường kính F1, đường kính F2 và khoảng cách F2.
Kết quả: Trong số 91 hình ảnh CBCT khảo sát ghi nhận tỉ lệ cá thể có ống đôi ống răng dưới là 46,2%, tỉ lệ
cá thể có ống hậu hàm là 16,5%. Nghiên cứu ghi nhận ống hậu hàm loại B1 hiện diện nhiều nhất 44,4%, số ống
hậu hàm loại A1, B2, C lần lượt là 27,8%, 22,2%, 5,6% và không ghi nhận có ống hậu hàm loại A2. Khoảng
cách A bên phải dài hơn bên trái có ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự phân bố
ống hậu hàm theo giới và vị trí bên hàm.
Kết luận: Nghiên cứu bước đầu ghi nhận sự hiện diện và đặc điểm đường đi ống hậu hàm ở xương hàm
dưới người Việt. Sự hiện diện của ống hậu hàm có ý nghĩa quan trọng giúp cho các nhà lâm sàng cần nhớ đến
cấu trúc này khi tiến hành can thiệp ở vùng hậu hàm và góp phần làm phong phú thêm đặc điểm hình thái của
xương hàm dưới người Việt.
Từ khóa: ống hậu hàm, ống đôi ống răng dưới.
ABSTRACT
RETROMOLAR CANALS AS OBSERVED ON CONE BEAM COMPUTED TOMOGRAPHY
Nguyen Thi Thuy Trang, Le Duc Lanh, Pham Thi Huong Loan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 366 ‐ 370
Objectives: To evaluate the presence and characteristics of the mandibular retromolar canal in Vietnamese
by using CBCT images.
Methods: A cross – sectional study was conducted on 91 CBCT images were stored in the X‐ray
Department, the Faculty Odonto – Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City. In
the retromolar fossa, detected the presence of retromolar canal, classified them according to Von Arx (2011),
measurement of distance A, height B, diameter C, the diameter F1, diameter F2 and distance F2.
Results: On 91 CBCT images, 42 patients were detected bifid mandibular canal (46.2%) and 15 patients
were found retromolar canal (16.5 %). The present study demontrated retromolar canal type B1 is the most with
44.4%, the retromolar type A1, B2, C are 27.8%, 22.2%, 5.6% respectively and not identified type A2. Distance
A in right side is longer than in left side with statistical significance. The existence of a retromolar canal was not
statistically related to gender or side.
Conclusions: Initially the present study evaluated the presence and characteristics course of mandibular
retromolar canal in Vietnamese. The presence of retromolar canal is very important for clinicians to remember
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Thùy Trang ĐT: 0972150008 Email: nguyenthuytrang@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 367
this structure when performing surgery in the retromolar area and contribute to enrich the morphological
characteristics of Vietnamese.
Key words: retromolar canal, bifid mandibular canal.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ống răng dưới (ORD) là cấu trúc giải phẫu
kéo dài từ lỗ hàm dưới đến lỗ cằm chứa dây
thần kinh xương ổ dưới, động mạch và tĩnh
mạch. Dây thần kinh xương ổ dưới có ý nghĩa
lâm sàng vì dễ bị tổn thương do gãy xương hàm
dưới, phẫu thuật răng khôn lệch, phẫu thuật đặt
Implant, phẫu thuật chỉnh hàm, phẫu thuật điều
trị các bệnh lý, phẫu thuật ghép (vị trí lấy mảnh
ghép, vị trí ghép) và phẫu thuật nội nha. Vì vậy,
xác định vị trí ống răng dưới giữ vai trò quan
trọng trong việc lập kế hoạch điều trị phẫu thuật
vùng răng sau hàm dưới. Những thay đổi giải
phẫu trong đường đi của ống răng dưới như sự
hiện diện ống đôi ORD, vòng ngoặt trước không
phải là hiếm(1), những đặc điểm này giúp các
nhà lâm sàng luôn nhớ rằng có các thay đổi về
giải phẫu của ORD. Ống đôi ORD được gọi là
ống hậu hàm khi ống hướng về phía xa răng cối
lớn thứ ba, phù hợp với phân loại IV trong phân
loại của Nortje (1977), ống hậu hàm là một ống
phụ phát sinh từ gối hậu nha và gia nhập với
ống chính ở vùng hậu hàm. Những biến chứng
như chấn thương thần kinh, dị cảm, chảy máu
có thể xảy ra khi các nhà lâm sàng không nhận
ra được sự hiện diện của cấu trúc giải phẫu này
và các ứng dụng của nó. Trong phẫu thuật cắt
xương hàm dưới thì phẫu thuật sẽ trở nên phức
tạp hơn khi có thêm bó mạch thần kinh thứ hai.
Hơn nữa, trong trường hợp chấn thương xương
hàm dưới, tất cả xương hàm dưới gãy nên được
nắn chỉnh và cố định để tránh bị chồng xương.
Sự nắn chỉnh sẽ trở nên khó khăn khi có bó
mạch thần kinh thứ hai nằm trên mặt phẳng
khác.
Hình ảnh cắt lớp điện toán với chùm tia hình
chóp nón (CBCT) được sử dụng rất hiệu quả
trong nha khoa giúp nhìn thấy hình ảnh ba
chiều của cấu trúc sọ mặt với độ phân giải cao,
kích thước chính xác, thời gian tạo ảnh nhanh,
độ nhiễm xạ thấp và kinh tế. Như vậy, liệu trên
xương hàm dưới người Việt có sự hiện diện của
ống hậu hàm hay không? Để trả lời câu hỏi
nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành khảo sát
“Sự hiện diện của ống hậu hàm trên hình ảnh
CBCT của xương hàm dưới người Việt” với các
mục tiêu sau:
‐ Xác định tỉ lệ ống hậu hàm trên hình ảnh
CBCT của xương hàm dưới người Việt theo giới,
giữa bên phải và bên trái.
‐ Mô tả đặc điểm ống hậu hàm và tương
quan ống hậu hàm với các mốc giải phẫu.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Mẫu thuận tiện gồm hình ảnh CBCT hàm
dưới thỏa tiêu chí hàm dưới còn răng cối lớn thứ
hai hoặc răng cối lớn thứ ba, không có bệnh lý
hay có chỉ định phẫu thuật xương hàm dưới và
chưa từng trải qua bất kì phẫu thuật hàm mặt
nào. Các hình ảnh CBCT được lưu trữ tại bộ
môn Tia X, lấy từ các bệnh nhân đến khám và
điều trị tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11 năm
2011 đến tháng 5 năm 2013.
Phương pháp nghiên cứu
Thu thập dữ liệu
Xác định ống răng dưới: là một ống nằm
trong xương hàm dưới bắt đầu từ lỗ hàm dưới ở
cành đứng xương hàm dưới, ống chạy xiên
xuống dưới và ra trước trong cành đứng, và sau
đó ra trước theo cành ngang đến lỗ cằm.
Ở vùng hậu hàm ghi nhận(2):
‐ Sự hiện diện ống đôi ORD: trên đường đi
của ống răng dưới, ghi nhận sự phân nhánh từ
ống chính.
‐ Sự hiện diện của ống hậu hàm: Một dải
thấu quang do sự phân nhánh của ống răng
dưới nằm trong vùng hậu hàm, đó là ống hậu
hàm.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 368
‐ Sự hiện diện của lỗ hậu hàm: ống hậu hàm
chạy theo hướng sau trên và mở ra một lỗ mở
trên xương vùng hậu hàm.
Phân loại ống hậu hàm dựa theo phân loại
của Von Arx (2011)(9).
Đo đạc các thông số về mối tương quan ống
hậu hàm với các mốc giải phẫu theo nghiên cứu
của Von Arx (2011)(9) gồm:
Khoảng cách ngang từ ống hậu hàm đến
răng cối lớn thứ hai (Hình 1).
Hình 1: Sơ đồ minh họa các kích thước của ống hậu
hàm.
(1) ORD, (2) ống hậu hàm (A) khoảng cách
ngang, (B) chiều cao ống hậu hàm, (C) đường
kính ống.
A: khoảng cách ngang từ điểm giữa của lỗ
hậu hàm đến đường nối men xê măng phía xa
của răng cối lớn thứ hai.
Chiều cao ống hậu hàm (Hình 1).
B: khoảng cách đứng (chiều cao) từ điểm
giữa của lỗ hậu hàm đến giới hạn phía trên của
ống răng dưới.
Từ điểm giữa lỗ hậu hàm đã xác định ở trên,
hạ đường vuông góc lên giới hạn phía trên của
ống răng dưới. Đo khoảng cách này ta được
chiều cao B.
Đường kính ống hậu hàm (Hình 1).
C: đường kính ống hậu hàm được đo tại vị
trí dưới trung tâm lỗ mở 3 mm.
Đường kính F1: đường kính của ống hậu
hàm khi phân nhánh từ ống răng dưới (phân
nhánh cấp 1) (Hình 2).
Đường kính F2: đối với các ống hậu hàm
phân loại A2 và B2, ghi nhận thêm đường kính
lớn nhất của ống hậu hàm khi phân nhánh cấp 2
(Hình 2).
Khoảng cách F2: từ điểm giữa của phân
nhánh cấp 2, hạ đường vuông góc với bề mặt
xương hàm dưới cùng hậu hàm, ghi nhận
khoảng cách này (Hình 3).
Hình 2:. Đo đường kính F1 trên hình ảnh CBCT.
Hình 3: Đường kính F2 và khoảng cách F2 trên hình
ảnh CBCT
Thực hiện khảo sát đặc điểm ống hậu hàm ở
mỗi bên hàm và cả hai bên (nếu có).
Sử dụng phép kiểm χ2, phần mềm SPSS 21
để so sánh sự phân bố cá thể có ống hậu hàm
theo nam – nữ, bên phải – bên trái, dùng phép
kiểm t để so sánh các thông số khoảng cách,
đường kính, chiều cao theo giới và bên phải –
bên trái.
KẾT QUẢ
Khảo sát 91 hàm dưới ghi nhận được có 42
cá thể ống đôi ORD (chiếm 46,2%). Trong đó có
15/91 cá thể có ống hậu hàm chiếm tỉ lệ 16,5%.
Trong số các cá thể có ống hậu hàm, có 6/15
(40%) cá thể là nữ và 9/15 (60%) cá thể là nam. 7
ĐƯỜNG KÍNH F1
KHOẢNG CÁCH F2
ĐƯỜNG KÍNH F2
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 369
(46,7%) cá thể chỉ có ống hậu hàm bên phải, 5
(33,3%) cá thể chỉ có ống hậu hàm bên trái và 3
(20%) cá thể có cả hai bên hàm.
Trong tổng số 18 ống hậu hàm cho thấy ở
nam, có 7 ống hậu hàm ở bên phải (63,6%) và 4
ống hậu hàm ở bên trái (36,4%). Ở nữ có 3 ống
hậu hàm hiện diện bên phải (42,9%) và 4 ống
hậu hàm hiện diện bên trái (57,1%), không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê sự phân bố ống
hậu hàm theo giới và vị trí bên hàm, p>0,05. Ống
hậu hàm loại B1 hiện diện nhiều nhất 8/18 ống
(44,4%), ống hậu hàm loại A1, B2, C lần lượt là 5
ống (27,8%), 4 ống (22,2%), 1 ống (5,6%) và
không có ống hậu hàm nào trong mẫu nghiên
cứu loại A2 (0%).
Bảng:. Giá trị trung bình các số đo.
Khoảng cách A Chiều cao B Đường kính C Đường kính F1 Đường kính F2 Khoảng cách F2
n’ 12 18 18 18 4 4
Giá trị trung bình 16,42 9,55 0,89 1,78 2,59 5,77
Độ lệch chuẩn 6,03 1,92 0,35 0,57 1,06 2,04
Đơn vị tính: mm
Khoảng cách trung bình tính từ điểm giữa lỗ
hậu hàm đến đường nối men – xê măng răng cối
lớn thứ hai là 16,42 ± 6,03 mm. Chiều cao trung
bình ống hậu hàm là 9,55 ± 1,92 mm. Đường
kính trung bình ống hậu hàm dưới 3 mm từ lỗ
mở là 0,89 ± 0,35 mm. Đường kính trung bình
ống hậu hàm tại phân nhánh thứ nhất, thứ hai
và khoảng cách từ phân nhánh thứ hai cho đến
bề mặt xương lần lượt là 1,78 ± 0,57 mm, 2,59 ±
1,06 mm, 5,77 ± 2,04 mm (Bảng 1).
BÀN LUẬN
Trong 91 hình ảnh CBCT được khảo sát, có
42 cá thể có ống đôi ORD chiếm tỉ lệ 46,2%, phù
hợp với nghiên cứu Naitoh (2009) ghi nhận tỉ lệ
ống đôi ORD thay đổi từ 15,6 – 65% trên hình
ảnh CBCT. Trong số đó chỉ có 15 cá thể có ống
hậu hàm chiếm tỉ lệ 16,5%, thấp hơn nghiên cứu
Kawai (2012) là 52% (24/46 xương hàm dưới)(3).
Trong nghiên cứu mới đây của Patil (2013) ghi
nhận tỷ lệ khá cao ống hậu hàm 65% khi khảo
sát trên hình ảnh CBCT(6). Tỷ lệ ống hậu hàm
trong các nghiên cứu trên xương khô và CBCT
thay đổi từ 6,1% ‐ 72%(9). Ossenberg (1987) đã
ghi nhận ở người Mỹ có tỉ lệ ống hậu hàm cao
hơn người Nhật Bản, Ấn Độ và châu Phi và ông
cũng kết luận rằng: tỉ lệ ống hậu hàm thay đổi
tùy chủng tộc(5). Sự khác biệt này có thể do ảnh
hưởng của di truyền và môi trường như dinh
dưỡng, căng thẳng áp lực(5).
Nghiên cứu này chưa ghi nhận có sự khác
biệt về giới và tần suất xuất hiện ống hậu hàm ở
bên phải và trái (p>0,05). Kết quả này tương tự
các nghiên cứu khác(1,5). Nghiên cứu cũng ghi
nhận tỉ lệ cá thể có ống hậu hàm ở một bên
(80%) cao hơn hai bên (20%), phù hợp với đa số
nghiên cứu khác(1,8), trong khi đó, nghiên cứu
của Sagne (1977) lại cho thấy ống hậu hàm hiện
diện ở cả hai bên hàm với tỉ lệ cao hơn.
Trong nghiên cứu này, tần số xuất hiện
ống hậu hàm ở nam (9/15 trường hợp) nhiều
hơn ở nữ (6/15 trường hợp) nhưng sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Kết quả này
tương tự Ossenberg (1987)(5) và Pyle (1999)(7).
Ngược lại, nghiên cứu của Von Arx (2011) nhận
thấy xu hướng nữ giới có ống hậu hàm nhiều
hơn so với nam giới(9). Tuy nhiên, các nghiên
cứu đều ghi nhận sự khác biệt giữa hai giới
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Trong số 18 ống hậu hàm trên 15 cá thể thì
ống hậu hàm loại B1 (8/18 ống hậu hàm) và A1
(5/18 ống) chiếm tỉ lệ cao hơn lần lượt là 44,4%
và 27,8%. Tỉ lệ này khá phù hợp với nghiên cứu
của Von Arx (2011) với tỉ lệ ống hậu hàm loại B1
và A1 lần lượt là 9/31 ống (29%) và 13/31 ống
(41,9%). Điều này có nghĩa là các ống hậu hàm
trong nghiên cứu này chủ yếu là những nhánh
đứng (loại A1) hoặc uốn cong (loại B1) tách ra từ
ORD. Tỉ lệ ống hậu hàm loại B2 là 22,2% cho
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 370
thấy ống hậu hàm không phải chỉ là nhánh đơn
mà trên đường đi phân nhánh từ ORD đến lỗ
mở vùng hậu hàm, ống hậu hàm có thể chia tách
thành những nhánh nhỏ hơn. Kết quả này tương
tự như nghiên cứu của Patil (2013) 31/129 cá thể
có ống hậu hàm loại A, 110/129 cá thể có ống
hậu hàm loại B.
Khi khảo sát đường kính ống hậu hàm tại
các vị trí: (a) phân nhánh từ ống răng dưới, (b)
phân nhánh cấp hai và (c) dưới 3 mm từ trung
tâm lỗ mở, nhận thấy đường kính ống hậu
hàm ngay tại nơi bắt đầu phân nhánh từ ống
răng dưới (1,78 ± 0,57 mm) lớn hơn tại vị trí
dưới 3 mm từ trung tâm lỗ mở (0,89 ± 0,35
mm). Nghiên cứu này ghi nhận 4 trường hợp
có ống hậu hàm loại B2 là những ống hậu hàm
cong hướng về vùng hậu hàm và mở ra một lỗ
mở ở vùng hậu hàm. Tuy nhiên, trên đường
đi, ống hậu hàm lại phân ra thêm một nhánh
ngang nữa (phân nhánh cấp 2). Đường kính
ống hậu hàm tại vị trí phân nhánh cấp 2 là lớn
nhất (2,59 ± 1,06 mm) và khoảng cách từ vị trí
này đến bề mặt xương vùng hậu hàm là 5,77 ±
2,04 mm. Đây là đặc điểm cần được lưu ý trên
lâm sàng bởi ống hậu hàm có đường kính lớn
như vậy (2,59 mm) sẽ dễ bị tổn thương trong
khi can thiệp ở vùng hậu hàm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Carter RB, Keen EN (1971). “The intramandibular course of
the inferior alveolar nerve”. J Anat, 108(3): p433 – 440.
2. Lizio G, Pelliccioni GA, Ghighi G, Fanelli A, Marchetti C
(2012). “Radiographic assessment of the mandibular
retromolar canal using cone‐beam computed tomography”.
Acta Odontol Scand, 71 (3 – 4): p650 – 655.
3. Kawai T, Asaumi R, Sato I, Kumazawa Y, Yosue T (2012).
“Observation of the retromolar foramen and canal of the
mandibular: a CBCT and macroscopic study”. Oral Radiol,
28: p10 – 14.
4. Narayana K, Nayak UA, Ahmed WN, Bhat JG, Devaiah BA
(2002). “The retromolar foramen and canal in south Indian
dry mandibles”. Eur J Anat, 6(3): p141 – 146.
5. Ossenberg NS (1987). “Retromolar foramen of the human
mandible”. Am J Phys Anthropol, 72(1): p119 – 129.
6. Patil S, Matsuda Y, Nakajima K, Araki K, Okano T (2013).
“Retromolar canals as observed on cone‐beam computed
tomography: their incidence, course, and characteristics”.
Oral and maxillofacial radiology, 115(5): p692 – 699.
7. Pyle MA, Jasinevicius TR, Lalumandier JA, Kohrs KJ, Sawyer
DR (1999). “Prevalence and implications of accessory
retromolar foramina in clinical dentistry”. General Dent,
47(5): p500 – 503.
8. Priya Y, Manjunath KY (2005). “Retromolar foramen”. Indian
J Dent Res, 16(1): p15 – 16.
9. Von Arx T, Hänni A, Sendi P, Buser D, Bornstein MM (2011).
“Radiographic study of the mandibular retromolar canal: An
anatomic structure with clinical importance”. J Endod, 37(12):
p1630 – 1635.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo:26/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 366_8918.pdf