Khảo sát đặc điểm lâm sàng chẩn đoán và điều trị ung thư vú nam giới

Giới thiệu: Ung thư vú ở nam giới là một loại ung thư hiếm gặp. Trong những năm gần đây, sự xuất hiện

những bệnh nhân nam mắc bệnh ung thư vú đến khám và điều trị tại bệnh viện Ung bướu TP HCM tăng

nhưng chưa có thống kê cụ thể.

Mục tiêu: (1) Khảo sát đặc điểm lâm sàng, các phương pháp chẩn đoán và các phương pháp điều trị ung

thư vú ở nam giới. (2) Khảo sát đặc điểm bệnh học và bước đầu đánh giá kết quả sống còn ung thư vú nam giới.

Phương pháp nghiên cứu: Thu thập dữ liệu theo các biến nghiên cứu dựa vào hồ sơ bệnh án tại bệnh viện

Ung Bướu TP HCM. Tất cả bệnh nhân nam giới đã chẩn đoán ung thư vú có bằng chứng giải phẫu bệnh từ

1/2008 ‐ 7/2013. Thiết kế nghiên cứu: báo cáo hàng loạt ca

pdf7 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 598 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Khảo sát đặc điểm lâm sàng chẩn đoán và điều trị ung thư vú nam giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 310 KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CHẨN ĐOÁN   VÀ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÚ NAM GIỚI  Bùi Chí Viết*, Trương Văn Thiện*  TÓM TẮT  Giới thiệu: Ung thư vú ở nam giới là một loại ung thư hiếm gặp. Trong những năm gần đây, sự xuất hiện  những bệnh nhân nam mắc bệnh ung  thư vú đến khám và điều  trị  tại bệnh viện Ung bướu TP HCM  tăng  nhưng chưa có thống kê cụ thể.   Mục tiêu: (1) Khảo sát đặc điểm lâm sàng, các phương pháp chẩn đoán và các phương pháp điều trị ung  thư vú ở nam giới. (2) Khảo sát đặc điểm bệnh học và bước đầu đánh giá kết quả sống còn ung thư vú nam giới.  Phương pháp nghiên cứu: Thu thập dữ liệu theo các biến nghiên cứu dựa vào hồ sơ bệnh án tại bệnh viện  Ung Bướu TP HCM. Tất cả bệnh nhân nam giới đã chẩn đoán ung thư vú có bằng chứng giải phẫu bệnh từ  1/2008 ‐ 7/2013. Thiết kế nghiên cứu: báo cáo hàng loạt ca.  Kết quả và bàn luận: Nghiên cứu chúng tôi có 27 bệnh nhân. Tuổi trung bình ung thư vú nam giới là 59  ± 16 tuổi, bướu vú không đau gặp trong 85,2% các trường hợp. Có thể có bất thường vùng núm vú (chiếm  40,7% các trường hợp) và bất thường vùng da trên bướu (chiếm 58,8% trường hợp). Bệnh nhân phát hiện bệnh  ở giai đoạn II, III chiếm 73,7% các trường hợp. Loại giải phẫu bệnh thường gặp là carcinôm ống tuyến vú xâm  nhập dạng NOS (chiếm 76%). Kết quả thụ thể nội tiết ER và/hoặc PR dương tính chiếm 94,7% các trường hợp.  Phương pháp cận  lâm sàng: 1.Siêu âm  tuyến vú có độ nhạy gần 82,3%, 2.FNA phát hiện  tế bào ung  thư ở  94,7% các trường hợp. Phương pháp điều trị: Phẫu thuật đoạn nhũ‐ nạo hạch nách là phương pháp điều trị ban  đầu, được áp dụng ở đa số các trường hợp. Sau điều trị phẫu thuật, còn kết hợp với xạ  trị  tại chỗ  (75% các  trường hợp), hóa trị toàn thân (58,3%) và nội tiết hỗ trợ (chiếm 79,2%). Thời gian sống còn trung bình 5 năm là  56 ± 6 tháng, tỷ lệ sống còn trung bình 5 năm trong nghiên cứu này là 91,7 % (độ lệch chuẩn là 8%).  Kết  luận: Tuổi trung bình 59± 16 tuổi. Triệu chứng lâm sàng thường gặp là bướu vú vùng trung tâm,  không đau. Siêu âm và FNA là hai cận lâm sàng cần thiết để chẩn đoán. Bệnh nhân thường đến giai đoạn trễ,  thụ thể nội tiết ER và/hoặc PR dương tính chiếm tỉ lệ cao. Phương pháp điều trị thường gặp phẫu thuật đoạn  nhũ – nạo hạch nách. Qua nghiên cứu chúng tôi cho thấy, ước tính sống còn 5 năm là 91,7%, với thời gian sống  còn trung bình 56 ± 6 tháng.  Từ khóa: ung thư vú nam giới, bướu vú  ABSTRACT  STUDY OF CLINICAL FEATURES DIAGNOSIS AND TREATMENT OF MALE BREAST CANCER  Bui Chi Viet, Truong Van Thien  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 310 ‐ 316  Background: Male breast cancer  is rare. In recent years, male breast cancer patients that were diagnosed  and treated in HCMC Oncology Hospital, is increasing but no specific statistics.  Objectives:  (1) Survey of clinical  features, diagnostic and treatment of male breast cancer, (2) Survey of  anatopathologic aspects and survival of male breast cancer.  * Bộ môn Phẫu thuật thực hành, ĐH Y Dược Tp. Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. Trương Văn Thiện ĐT: 0978534279 Email: thienyds@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Tạo Hình Thẩm Mỹ  311 Methods: Used the data on medical records at HCMC Oncology Hospital. All patients were diagnosed with  male breast cancer pathology evidence from 1/2008 ‐ 7/2013, Research design: reports series of cases.  Results and discussions: There are 27 patients in our study. The average age of male breast cancer was 59  ± 16 years. Patients who have a breast tumors, no pain were encountered in 85.2% of cases, may be abnormal  nipple area (40.7% of cases) and skin abnormalities in tumors (58.8 % of cases). Patients that were detected in  phase II and III accounted for 73.7% of cases. The most common tumor type is invasive ductal carcinoma (Not  Otherwise Specials form is 76% of cases). Hormone receptors such as ER – positive and / or PR – positive have  been accounted for 94.7% of cases. Clinical method : 1. Sensitivity of ultrasound breast is 82.3%, 2. Sensitivity of  FNA is 94.7%. Treatment: Modified radical mastectomy is applied almost cases. After surgery, radiation therapy  is combined with on‐site (75% of cases), systemic chemotherapy (58.3%) and endocrine therapy (79.2%). Median  survival time was 56 ± 5 years 6 months, the median survival rate of 5 years in this study was 91.7%(standard  deviation of 8%).  Conclusions: The average age of male breast cancer was 59 ± 16 years. The common clinical signs are the  central breast lump, no pain. Ultrasound and FNA are both required for clinical diagnosis. Patients usually late  stage, hormone receptor ER and/or PR‐positive have high percentage. The first treatment is the modified radical  mastectomy. Through our study, the estimated 5‐year survival was 91.7%, with a median survival time 56 ± 6  months.  Key worlds: male breast cancer, breast tumor  MỞ ĐẦU  Ung  thư  vú  là  một  trong  những  nguyên  nhân gây  tử vong hàng đầu  trên phạm vi  toàn  thế giới. Là loại ung thư thường gặp nhất ở phụ  nữ; trong khi ung thư vú ở nam giới là một loại  ung  thư hiếm gặp,  chiếm  tỷ  lệ  1%(6). Tuy  tỷ  lệ  không  cao  nhưng  vì  có  ít  kiến  thức  về  triệu  chứng  bệnh  và  sự  chủ  quan,  hầu  hết  những  bệnh nhân đã đến khám và điều trị ở giai đoạn  muộn với một thực tế lâm sàng đáng tiếc là ung  thư ở một nơi đúng ra rất dễ phát hiện, nhưng  lại không được chẩn đoán và điều trị sớm.  Tại Vương  quốc Anh,  số  bệnh  nhân  nam  ung  thư vú mỗi năm  cũng  chiếm khoảng  1%  tổng  số  ung  thư  vú(10). Nghiên  cứu  khác  cho  thấy  tỉ  lệ mắc  bệnh  tăng  26%  trong  25  năm  qua(4). Theo báo cáo mới nhất của Hiệp hội ung  thư Hoa Kỳ  (American Cancer  Society)  trong  năm  2013  có  2240  trường  hợp  mới  và  410  trường  hợp  tử  vong  vì  ung  thư  vú  ở  nam  giới(9). Tại Việt nam, các công trình nghiên cứu  về ung thư vú nam còn khá ít và tản mạn. Tác  giả Cung Thị Tuyết Anh đã báo cáo 10 trường  hợp  trong 14 năm  (1980 – 1987), bệnh viện K  Hà  nội  ghi  nhận  17  trường  hợp  ung  thư  vú  nam giới  từ năm 1995‐ 2000,  tác giả Đào Đức  Minh báo cáo 35 ca từ năm 1993 – 2003.  Do đó chúng  tôi  tiến hành khảo sát nghiên  cứu đề tài này tại bệnh viện Ung bướu TP HCM  với mục tiêu như sau:   1. Khảo sát đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán và  điều  trị ung  thư vú ở nam giới đã đến khám  tại  bệnh viện Ung Bướu TP HCM từ năm 2008 ‐ 2013.  2. Khảo sát đặc điểm bệnh học và bước đầu  đánh giá kết quả sống còn ung thư vú nam giới.  Nghiên  cứu này nhằm góp phần nâng  cao  kiến thức cho người dân và nhân viên y tế, nhất  là  những  thầy  thuốc  trẻ  về  căn  bệnh  nói  trên,  giúp phát hiện và điều trị sớm, mang lại kết quả  và cải thiện chất lượng sống của người bệnh một  cách tốt nhất.  PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Bệnh nhân nam giới đã chẩn đoán ung  thư  vú có bằng chứng giải phẫu bệnh tại bệnh viện  Ung Bướu TP HCM  từ 1/2008  ‐ 7/2013,  loại  trừ  các bệnh nhân bị ung thư nguyên phát ở một cơ  quan khác trong cơ thể sau đó được chẩn đoán  ung thư vú. Thiết kế nghiên cứu : báo cáo hàng  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 312 loạt  ca,  thu  thập dữ  liệu  theo  các  biến  nghiên  cứu  dựa  vào  hồ  sơ  bệnh  án.  Số  liệu  thống  kê  được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Dự đoán  thời  gian  sống  còn  theo  phương  pháp Kaplan  Meier.  KẾT QUẢ  Tuổi trung bình ung thư vú nam giới là 59 ±  16 tuổi. Tuổi nhỏ nhất là 25 tuổi và tuổi lớn nhất  là 84 tuổi. Nhóm tuổi phát hiện ung thư vú nam  giới nhiều nhất là nhóm tuổi từ 50‐ 59 tuổi.  Biểu đồ 1: Phân bố nhóm nghiên cứu theo tuổi  Bảng 1: Triệu chứng lâm sàng  Triệu chứng lâm sàng Nghiên cứu của chúng tôi (%) Bướu vú Không đau. Đau 100 85,2 14,8 Bất thường núm vú Co rút núm vú Tiết dịch núm vú. Loét, xâm nhiễm cấu trúc núm vú. 40,7 18,5 7,4 14,8 Bất thường da trên bướu Xâm nhiễm da bề mặt, viêm đỏ. Lồi- sùi trên bề mặt da. Loét ra da. 58,8 22,2 7,4 7,4 Kích  thước  bướu:  Đường  kính  bướu  trung  bình là 32,3 mm, độ lệch chuẩn 16,4. Đường kính  bướu lớn nhất là 60 mm, nhỏ nhất là 10 mm.  Bảng 2: Giai đoạn lâm sàng  Giai đoạn lâm sàng Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) Giai đoạn I 4 19,1 Giai đoạn II 5 23,8 Giai đoạn III 9 42,9 Giai đoạn IV 3 14,2 Tổng 21 100% Bảng 3: Các phương tiện cận lâm sàng được thực hiện  Phương tiện cận lâm sàng Số bệnh nhân Tỷ lệ(%) Siêu âm vú 20 74,1 FNA 19 70,4 Mổ sinh thiết 5 18,5 Siêu  âm  tuyến  vú  giúp  hỗ  trợ  chẩn  đoán  ung thư vú với độ nhạy gần 82,3%. FNA có độ  nhạy cao, phát hiện tế bào ung thư ở 94,7% các  trường hợp.  Bảng 4: Tỷ lệ thụ thể nội tiết ER, PR ở bệnh nhân  ung thư vú  Thụ thể nội tiết Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) ER Dương tính mạnh- vừa Dương tính yếu- âm tính 19 18 1 94,7 5,3 PR Dương tính mạnh – vừa Dương tính yếu – âm tính 19 13 6 68,4 31,6 HER-2 Dương tính Âm tính 19 3 16 15,8 84,2 Bảng 5: Loại giải phẫu bệnh.  Loại giải phẫu bệnh Số BN Tỷ lệ(%) Carcinôm ống tuyến vú xâm nhiễm dạng NOS 19 76 Carcinôm ống tuyến vú xâm nhiễm dạng nhầy 3 12 Carcinôm ống tuyến vú xâm nhiễm dạng nhú grad I 1 4 Carcinôm tiểu thùy tuyến vú xâm nhiễm grad II 1 4 Carcinôm tuyến vú biệt hóa kém 1 4 Tổng 25 100 Bảng 6: Các phương pháp điều trị ung thư vú nam  giới và tỷ lệ thực hiện  Phương pháp điều trị Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) Phẫu thuật Đoạn nhũ- nạo hạch nách. Phẫu thuật Halsted 24 23 1 100% 95,8 4,2 Hóa trị 14 58,3 Nội tiết hỗ trợ: Tamoxifen 19 79,2 Xạ trị 18 75 Bảng 7: Tỷ lệ thực hiện các phác đồ điều trị ung thư  vú nam giới ghi nhận tại BV Ung Bướu  Phác đồ điều trị Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) Phẫu thuật + hóa trị+ xạ trị+ nội tiết 14 51,9 Phẫu thuật ĐN- NH+ xạ trị+ nội tiết 4 14,8 Phẫu thuật ĐN- NH+ nội tiết 1 3,7 Phẫu thuật ĐN- NH bỏ điều trị tiếp theo 5 18,5 Bỏ điều trị 3 11,1 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Tạo Hình Thẩm Mỹ  313 Thời gian sống còn trung bình 5 năm là 56 ±  6 tháng,  tỷ  lệ sống còn  trung bình 5 năm  trong  nghiên cứu này là 91,7 % (độ lệch chuẩn là 8%).  BÀN LUẬN  Tuổi   Độ  tuổi  trung  bình  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng xấp xỉ  so với nghiên  cứu  của  tác  giả  Đào  Đức Minh(2),  và  tác  giả Agrawal  báo cáo tuổi trung bình ung thư vú nam  là 60  tuổi, gặp ở bệnh nhân  từ 20‐ 90  tuổi(0). So với  tuổi trung bình mắc bệnh ung thư vú ở nữ giới  được  nghiên  cứu  tại BV Ung  bướu TP HCM  của  tác giả khác(12,13),  tuổi  trung bình ung  thư  vú  nam  giới  trong  nghiên  cứu  này  cũng  lớn  hơn gần 10  tuổi. Điều này  cũng phù hợp với  nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, ung thư  vú nam giới có độ tuổi phát hiện muộn hơn so  với nữ giới 5 ‐ 10 năm(14).  Triệu chứng lâm sàng  Bướu  vú  là  triệu  chứng  quan  trọng,  xuất  hiện  đầu  tiên  ở  100%  bệnh  nhân,  phần  lớn  85,2%  là bướu không đau. Điều này  tương  tự  với nghiên cứu của Giordano SH(6). Vị trí bướu  xuất hiện nhiều nhất là ở vùng trung tâm núm  vú, dưới núm vú‐ quầng vú  (chiếm 90,5%),  ít  gặp  ở  vị  trí  khác.  Stacie  Schneider  và  Jack  Sariego(11) cũng ghi nhận khối bướu ở nam xảy  ra  phổ  biến  nhất  trong  khu  vực  trung  ương  (44,1%),  tiếp  theo  là  góc  phần  tư  trên  ngoài(25,7%). Điều này khác biệt với ung  thư  vú ở nữ giới. Theo tác giả Võ Thị Thu Hiền, Võ  Giáp Hùng  cùng  nghiên  cứu  ung  thư  vú  nữ  giới tại BV Ung Bướu TP HCM thì vị trí bướu  thường  gặp  nhất  là ¼  trên  ngoài  của  vú(12,13).  Chúng tôi lý giải do sự khác biệt giữa cấu trúc  giải phẫu của nam giới và nữ giới. Mô  tuyến  vú của nam  ít phát  triển, hệ  thống  ống  tuyến  vú  teo  nhỏ,  hầu  hết  tập  trung  ở  vùng  trung  tâm vú, gần núm vú ‐ quầng vú, vì vậy khi có  xuất hiện bướu vú sẽ  thường gặp ở những vị  trí này.  Kích  thước  bướu  vú  trung  bình  trong  nghiên cứu này  là 32,3 mm (nhỏ nhất 10 mm,  lớn nhất  là 60 mm). Kích  thước này nhỏ hơn  nhiều so với nghiên cứu của  tác giả Đào Đức  Minh(2),  nhưng  cũng  tương  đương  tác  giả  Melissa(8).  Điều  này  là  một  dấu  hiệu  đáng  mừng,  cho  thấy  người  dân  có  quan  tâm  đến  tình trạng bệnh, việc cần làm bác sĩ chúng ta là  phải  khuyến  khích  phát  hiện  sớm  hơn,  giúp  tiên lượng bệnh tốt hơn.  Các bệnh nhân  trong nghiên  cứu này  khi  đến  khám  và  điều  trị,  có  58,8%  là  đã  có  bất  thường vùng da  trên bướu, nhiều nhất  là đến  giai đoạn III có xâm nhiễm da bề mặt, viêm đỏ  chiếm 22,2%. Hiển nhiên là phần lớn các bệnh  nhân này cũng xuất hiện các bất thường vùng  núm  vú  (chiếm  40,7%  số  bệnh  nhân  nghiên  cứu). Với kích  thước bướu nhỏ nhưng bệnh ở  giai  đoạn  III  chiếm 42,9%. Điều này  cho  thấy  ung  thư vú nam giới diễn  tiến  tại  chỗ nhanh  hơn  so  với  ung  thư  vú  ở  nữ  giới.  Đây  là  do  tuyến vú nam kém phát triển, mô mỡ dưới da  mỏng  nên  bướu  mặc  dù  có  kích  thước  nhỏ  nhưng  có  thể  dễ  dàng  xâm  lấn  ra  da  vùng  thành ngực trên bướu hơn so với nữ giới.  Giai đoạn ung thư  Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá  giai đoạn lâm sàng được ở 21 bệnh nhân. Tỷ lệ  bệnh  nhân  phát  hiện  ở  giai  đoạn  III  chiếm  42,9%,  điều này  tương  đương  với  các  tác  giả  khác  như  Đào  Đức Minh,  Ian  S  Fentiman  Chúng tôi lí giải là do lớp mỡ dưới da ở tuyến  vú nam rất mỏng, một bướu dù có kích thước  nhỏ những vẫn có  thể xâm  lấn vào da và cấu  trúc xung quanh. Vì vậy chúng ta cần thúc đẩy  việc sử dụng các phương tiện cận lâm sàng để  phát hiện bướu ở kích  thước nhỏ hơn, và cần  tuyên  truyền  cho người dân hiểu biết về  căn  bệnh này để họ đến khám và chẩn đoán sớm.  Loại giải phẫu bệnh  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  có  25  bệnh nhân có kết quả giải phẫu mô bệnh học,  tất  cả  là  carcinôm. Trong  đó  là  carcinôm  ống  tuyến vú xâm nhập  ở  chiếm  tỷ  lệ  chủ yếu  là  76%. Điều này giống với nhiều  tác giả nghiên  cứu  khác,  tác  giả  Đào  Đức  Minh(2),  tác  giả  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 314 Giordano(6) So  sánh với ung  thư vú  của nữ  giới,  theo  các  tác giả Võ Thị Thu Hiền(13), Võ  Giáp Hùng(12)  nghiên  cứu  về  ung  thư  vú  nữ  giới  tại BV Ung Bướu TP HCM ghi nhận  loại  mô học  bướu  đa phần  cũng  là  carcinôm  ống  tuyến  vú  xâm  nhiễm  dạng  NOS.  Chúng  tôi  nhận  thấy  về  phân  loại mô  học  ung  thư  vú  nam giới và nữ giới cũng tương tự nhau.  Các phương tiện cận lâm sàng  Siêu âm vú  Trong nghiên cứu của chúng tôi có kết quả  siêu âm ở 74,1% số bệnh nhân, số  lượng bệnh  nhân chúng tôi được thực hiện siêu âm không  cao  là có một số bệnh nhân đã đi khám, chẩn  đoán và thực hiện các xét nghiệm tại bệnh viện  khác đã có kết quả. Nếu xét trên các bệnh nhân  chưa phẫu  thuật vùng ngực, kết quả  siêu âm  nghĩ nhiều ung thư vú chiếm 82,3%. Chúng tôi  cũng đồng ý với quan điểm siêu âm là phương  tiện cận lâm làng không xâm lấn, dễ dàng thực  hiện và có độ nhạy, độ đặc hiệu cao chẩn đoán  ung thư vú của tác giả khác(3).  Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNA)  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  có  19  bệnh  nhân  có  kết  quả  tế  nào  học  qua  FNA,  FNA chẩn đoán xác định  là ung  thư vú  trong  15 bệnh nhân,  chiếm  78,9%  trường hợp,  có  3  trường hợp nghi ngờ carcinôm tuyến vú chiếm  15,8%  trường  hợp. Agrawal  và  nhiều  tác  giả  khác đều đồng ý  là chọn hút  tế bào bằng kim  (FNA)  là  xét nghiệm quan  trọng và  cần  thiết  để chẩn đoán ung thư vú(0,2). FNA cho kết quả  sớm hơn so với mổ sinh thiết, và khi được thực  hiện bởi bác sĩ có kinh nghiệm, tỷ lệ chẩn đoán  chính  xác  của  FNA  lên  tới  hơn  90%(0).  Như  vậy, để định hướng khối bướu ở ngực có phải  ác  tính hay không, nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho thấy kết quả FNA có độ nhạy là 94,7 %, tỷ  lệ âm giả này chiếm 5,3%.   Thụ thể nội tiết ở ung thư vú nam giới  Có  19  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  kết  quả  chẩn  đoán  hóa mô miễn  dịch. Tỷ lệ bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương  tính mạnh – vừa (ER hoặc PR dương tính mạnh‐  vừa) là 94,7%. Theo Giodarno và cộng sự(5), tỷ lệ  thụ  thể nội  tiết ER dương  tính mạnh  ở những  bệnh nhân ung thư vú nam giới là 90,6%, trong  khi  tỷ  lệ  này  ở  nữ  là  76%.  Theo  Zeina A.  và  Nahleh cũng  đồng ý  là  thụ  thể nội  tiết ER, PR  được tìm thấy trong ung thư vú nam giới cũng  cao hơn so với nữ giới(15).   Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng  ghi  nhận tình trạng thụ thể HER‐2 âm tính chiếm tỷ  lệ 84,2%, điều này phù hợp với các tác giả nước  ngoài  là chỉ có 5% bệnh nhân ung  thư vú nam  giới  có  biểu  hiện  thụ  thể HER‐2 dương  tính(6).  Việc xác  định  tình  trạng của  thụ  thể nội  tiết  là  yếu tố tiên lượng quan trọng và ảnh hưởng đến  chỉ định điều trị nội tiết hỗ trợ.  Điều trị  Các bệnh nhân trong nghiên cứu này phần  lớn đều được chọn phẫu thuật là bước điều trị  đầu  tiên.  Phương  pháp  phẫu  thuật  được  sử  dụng nhiều nhất là phẫu thuật Đoạn nhũ‐ nạo  hạch nách,  được áp dụng  ở 23/24 bệnh nhân,  chiếm  tỷ  lệ xấp xỉ 95,8%. Có 1 bệnh nhân  đã  được  đoạn nhũ  ở bệnh viện khác, khối bướu  đã ăn lan vào cơ ngực lớn, vì vậy chúng tôi sử  dụng  phương  pháp  phẫu  thuật Halsted.  Sau  khi  được  phẫu  thuật,  19  bệnh  nhân  trong  nghiên cứu chúng tôi tiếp tục được điều trị xạ  trị. Tác giả William J Gradishar(14) cũng đề nghị  xạ trị cho các bệnh nhân sau phẫu thuật, nhất  là bệnh nhân có di căn hạch và/hoặc bệnh tiến  triển  tại chỗ  (T3 hoặc T4). Xu hướng xạ  trị bổ  trợ  sau  phẫu  thuật  đoạn  nhũ  ở  nam  giới  thường gặp hơn so với nữ giới, có thể do ung  thư vú của nam giới thường có xâm  lấn ra da  và  núm  vú. Xạ  trị  có  hiệu  quả  trong  việc  đề  phòng tái phát và tăng khả năng sống còn(6).   Hóa  trị nên  được  sử dụng  ở những  bệnh  nhân ung thư vú không có thụ thể nội tiết ER  hoặc bệnh nhân có bướu đường kính ≥ 10 mm,  hoặc có di căn hạch nách(14). Các phác đồ hóa  trị  ở  nam  giới  bị  ung  thư  vú  thường  được  dùng  tương  tự  như  phác  đồ  hóa  trị  ở  nữ(14).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  14  bệnh  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Tạo Hình Thẩm Mỹ  315 nhân được hóa trị kết hợp với phẫu trị, xạ trị,  chiếm 51,8%. Tỷ lệ này là không cao, có nhiều  nguyên  nhân,  phần  lớn  là  do  bệnh  nhân  bỏ  điều trị tiếp theo sau khi phẫu trị.  Trong nghiên cứu của chúng tôi có 19 bệnh  nhân  sử  dụng  điều  trị  nội  tiết  hỗ  trợ  Tamoxifen, các bệnh nhân này đều có  thụ  thể  nội  tiết  dương  tính mạnh. Giordano  và  cộng  sự(6) trong một nghiên cứu gần đây ở 38 bệnh  nhân ung thư vú nam được điều trị nội tiết hỗ  trợ (35 người sử dụng Tamoxifen) ghi nhận tỷ  lệ tái phát và thời gian sống còn ở những bệnh  nhân  này  tốt  hơn  so  với  nhóm  bệnh  nhân  không được điều trị nội tiết.   Đánh giá sống còn  Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  theo  dõi  được  22  bệnh  nhân,  thời  gian  theo  dõi  trung  bình 23,7  tháng  (dài nhất: 59  tháng, ngắn nhất:  0,5  tháng).  Có  1  bệnh  nhân  tử  vong  sau  21,5  tháng điều trị, bệnh nhân này chỉ phẫu thuật sau  đó bỏ điều  trị, không rõ nguyên nhân  tử vong.  Chúng  tôi dự đoán  thời gian sống còn và  tỷ  lệ  sống  còn  theo  Kaplan‐ Meier.  Tỷ  lệ  sống  còn  trung bình 5 năm  là 91,7%  (độ  lệch chuẩn 8%),  trong đó có 1 bệnh nhân phát hiện di căn phổi  sau 14 tháng được điều trị phẫu thuật, tuy nhiên  bệnh nhân này cũng bỏ điều trị tiếp theo sau khi  được phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch. Thời gian  sống còn trung bình dự đoán theo Kaplan Meier  là  56  ±  6  tháng. Do  số  lượng bệnh nhân  trong  nghiên cứu còn khá ít và số lượng bệnh nhân bị  mất  dấu  nhiều  nên  việc  tiên  lượng  bệnh  còn  nhiều khó khăn, cần có nghiên cứu với số lượng  bệnh nhân lớn hơn.   KẾT LUẬN  Nghiên cứu 27 bệnh nhân ung thư vú nam  giới  đến  khám  và  điều  trị  tại  bệnh  viện Ung  Bướu  TP  HCM  từ  2008‐2013,  chúng  tôi  ghi  nhận kết luận sau:  1. Ung  thư  vú  nam  giới  có  độ  tuổi  trung  bình 59 ± 16  tuổi. Bướu  thường  ở vị  trí  trung  tâm, không  đau kèm  theo  triệu  chứng  co  rút  núm vú và xâm nhiễm da. Siêu âm giúp hỗ trợ  chẫn  đoán  có  độ  nhạy  82,3%.  FNA  giúp  xác  định chẩn đoán có độ nhạy cao chiếm 94,7%.  Điều trị chủ yếu là phẫu thuật, trong đó chỉ  định  phẫu  thuật  đoạn  nhũ‐  nạo  hạch  chiếm  95,8%.  2. Phần  lớn bệnh nhân đến nhập viện giai  đoạn  trễ,  trong  đó giai  đoạn  II,III  chiếm  tỷ  lệ  73,7%. Loại carcinôm ống  tuyến vú dạng xâm  nhập (NOS) chiếm 76%. Đặc biệt có đến 94,7%  có thụ thể ER, PR dương tính.  Qua  nghiên  cứu  chúng  tôi  cho  thấy,  ước  tính  sống  còn  5  năm  là  91,7%,  với  thời  gian  sống còn trung bình 56 ± 6 tháng.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Agrawal A, Ayantunde AA, Rampaul R, Robertson JF (2007),  ʺMale breast cancer: a review of clinical managementʺ. Breast  Cancer Res Treat, Vol. 103,pp 11‐21.  2. Đào Đức Minh (2004), Ung thư vú nam giới, Luận văn thạc sĩ  y học, Đại học Y Dược Tp HCM.  3. Đỗ Doãn Thuận và Nguyễn Duy Huề (2008), ʺGiá trị của siêu  âm trong chẩn đoán ung thư vúʺ. Tạp chí nghiên cứu Y học,  Số 53, tr 7‐15  4. Giordano SH, Cohen DS, Buzdar AU, Perkins G, Hortobagyi  GN  (2004),  ʺBreast  carcinoma  in men:  a  population‐based  studyʺ. Cancer, Vol. 101, pp 51‐57.  5. Giordano SH, Perkins GH, Broglio K, et al (2005), ʺAdjuvant  systemic therapy for male breast carcinomaʺ. Cancer, Vol. 104,  pp 2359‐2364.    6. Giordano  SH  (2005),  ʺA  Review  of  the  Diagnosis  and  Management of Male Breast Cancerʺ. The Oncologist, Vol. 10,  pp 471‐479.  7. Lê Thanh Vũ  (2011), Kết quả điều  trị ung  thư vú giai đoạn  sớm, Luận văn Thạc sĩ y học, Đại học Y Dược TP HCM.  8. Melissa Conrad  Stöppler, D. L., William C.  Shiel  Jr.  (2012),  ʺMale  Breast  Cancer  Statistics,  Symptoms,  Signs,  Facts,  Causes and Treatmentʺ. MedicineNet.com  9. National  Cancer  Institute  (2013,  15/02/2013).  General  Information About Male Breast Cancer. Male Breast Cancer  Treatment,  from  st/HealthProfessional/page1.  10. Iredale R, Brain K, Williams B, France E, Gray J (2006), ʺThe  experiences  of  men  with  breast  cancer  in  the  United  Kingdomʺ. European Journal of cancer, Vol. 42, pp 334‐341  11. Schneider S, Sariego J (2009), ʺMale Breast Cancer Presenting  as an Axillary Mass: A Case Report and Literature Reviewʺ.  South Med J., Vol. 102(7), pp 736‐737.  12. Võ Giáp Hùng  (2008), Chẩn đoán và điều  trị carcinôm  ống  tuyến vú  tại chỗ, Luận án bác sĩ chuyên khoa  II, Đại học Y  Dược TP HCM.  13. Võ Thị Thu Hiền (2007), ʺChẩn đoán và điều trị ung thư vú ở  phụ nữ lớn tuổiʺ. Y học TP Hồ Chí Minh, Số 11(4), Tr 316‐324.  14. William J Gradishar. (2013, 26/06/2013). Breast cancer in men.  In:  D.  F.  Hayes,  editor,  UpToDate®,  from  ‐cancer‐in‐ Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 316 men?topicKey=ONC  15. Nahleh ZA (2006), ʺHormonal therapy for male breast cancer:  A  different  approach  for  a  different  diseaseʺ.  Cancer  treatment reviews, Vol. 32, pp 101‐105.  Ngày nhận bài báo: 01/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013  Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf310_1_7624.pdf