Khai thác M-Learning trong đào tạo tín chỉ

Bài báo đề cập đến việc ứng dụng một hình thức dạy học dựa trên sự phát triển cao của công nghệ

là M-learning vào đào tạo tín chỉ, trong đó tập trung vào phân tích việc khai thác những thế mạnh

của M-learning hỗ trợ sinh viên tự học - Một yếu tố mang tính quyết định đến chất lượng đào tạo

tín chỉ

pdf6 trang | Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 430 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Khai thác M-Learning trong đào tạo tín chỉ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trịnh Thị Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 45 - 50 45 KHAI THÁC M-LEARNING TRONG ĐÀO TẠO TÍN CHỈ Trịnh Thị Phương Thảo* Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Bài báo đề cập đến việc ứng dụng một hình thức dạy học dựa trên sự phát triển cao của công nghệ là M-learning vào đào tạo tín chỉ, trong đó tập trung vào phân tích việc khai thác những thế mạnh của M-learning hỗ trợ sinh viên tự học - Một yếu tố mang tính quyết định đến chất lượng đào tạo tín chỉ. Từ khóa: M-learning; đào tạo tín chỉ; tự học; điện thoại di động; hình thức dạy học. TỔNG QUAN VỀ M-LEARNING* Hiện nay khái niệm mobile learning (M- learning) trên thế giới được đề cập theo 2 cách tiếp cận chính. • Xu hướng gắn M-learning với việc sử dụng các thiết bị công nghệ: Theo một số chuyên gia như Quinn (2000), Sariola (2001), Pinkwart (2003), Turunen cùng các cộng sự của mình (2003), Traxler (2005): M-learning là học tập diễn ra với sự giúp đỡ của các thiết bị di động (các thiết bị nhỏ, xách tay và các thiết bị máy tính, truyền thông không dây) [4]. • Xu hướng gắn M-learning với tính di động của người học: Khác với xu hướng trên, một số chuyên gia như Oloruntoba (2006), Rebecca-rjhogue lại cho rằng “M-learning is learning as it arises in the course of person-to-person mobile communication”. Theo quan điểm này, M-learning là hình thức dạy học mà việc học tập được tổ chức, thực hiện qua thông tin di động giữa người với người [3]. Ở Việt Nam khái niệm M-learning là một thuật ngữ mới xuất hiện trong thời gian gần đây nên cũng chưa có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau. Trong nội dung văn bản số 1790 /QĐ-BGDĐT, ngày 14 tháng 5 năm 2012 ban hành Thể lệ cuộc thi “Thiết kế bài giảng điện tử E-Learning” năm học 2011- 2012 cho khối Tiểu học của Bộ GD&ĐT cho * ĐT: 0983053500 thấy Bộ GD&ĐT quan niệm M-learning (Mobile learning) là việc thực hiện học tập qua việc sử dụng các phương tiện thiết bị di động cá nhân như PDA, ĐTDĐ có công nghệ kết nối 3G. Theo chúng tôi hai yếu tố không thể tách rời trong M-learning là việc sử dụng các thiết bị công nghệ và khả năng di động của người học bởi các lý do sau: Trước hết phải kể đến sự phát triển như vũ bão của ICT, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ không dây như wifi; bluetooth... và các hệ thống kết nối viễn thông không dây toàn cầu như GPS (Global Positioning System); GSM (Global System for Mobile Communications); GPRS (General packet radio service); 3G (third-generation technology); CDMA (Code division multiple access)... cùng hệ thống các vệ tinh thu phát sóng trên khắp thế giới. Những công nghệ này đang tác động và mang lại nhiều đột phá trong nhiều lĩnh vực của khoa học công nghệ và đời sống và trong xu hướng này, giáo dục đào tạo không thể là một trường hợp ngoại lệ. Tiếp theo, cần phải đặc biệt chú ý đến mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố là thiết bị công nghệ và khả năng di động của người học bởi vì: - Để việc học được đảm bảo diễn ra mọi lúc, mọi nơi không phụ thuộc vào địa điểm đặt lớp học thì phải sử dụng các các thiết bị di động cá nhân. - Ngược lại các thiết bị di động cá nhân là động lực và tác nhân chính đảm bảo cho việc Trịnh Thị Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 45 - 50 46 cá nhân hóa cao trong học tập và đáp ứng nhu cầu học mọi lúc, mọi nơi của người học. Như vậy, ta có thể hiểu M-learning là bước phát triển tiếp theo của E-learning. M- learning tập trung vào khai thác tính di động của người học vả khả năng tương tác với các công nghệ di động. M-learning là một hình thức học tập mà bản thân người học có thể thực hiện được việc học tập ở mọi lúc, mọi nơi với sự hỗ trợ của các thiết bị di động như ĐTDĐ, PDA, PocketPC KHAI THÁC M-LEARNING TRONG DẠY HỌC Điều đặc biệt trong M-learning, thay vì phương pháp mặt đối mặt truyền thống sẽ là phương pháp học có GV hướng dẫn từ xa. Mô hình không gian học tập hay khái niệm lớp học của phương pháp truyền thống sẽ thay đổi trong môi trường M-learning (hình 1, hình 2). Điều này chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa giáo viên (GV), sinh viên (SV) và các vấn đề xã hội. Hình 1. Mô hình học tập truyền thống Hình 2. Mô hình M-learning GV CT đào tạo Trường học SV Không gian học tập di động được coi như là lớp học Internet Lớp học Trường học SV Chương trình đào tạo GV Bổ sung tài nguyên về nội dung và chương trình đào tạo Internet Trịnh Thị Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12): 45 - 50 47 Học tập là một hoạt động phức tạp mà động cơ của SV và tình trạng thể chất đóng vai trò quan trọng. Tài liệu giảng dạy, kỹ năng của GV và chương trình giảng dạy tất cả đều đóng một vai trò quan trọng trong quá trình học tập của SV. Tiềm năng của M-learning trong giáo dục đào tạo là rất lớn. Công nghệ mobile đang cung cấp những cơ hội để tối ưu hoá sự tương tác và trao đổi thông tin giữa GV và người học, giữa các người học trong cộng đồng học tập. M-learning nâng cao sự hợp tác, cộng tác và học tập tích cực Vì vậy, M-learning sẽ trở thành một xu hướng mới của giáo dục từ xa bởi vì nó cung cấp những cơ hội thuận lợi cho GV và SV trong việc thiết lập môi trường học tập để tăng cường tính linh hoạt cho SV. M-learning cũng đòi hỏi phương pháp dạy học và cách tiếp cận mới. M-learning giúp người học một cách tuyệt vời bằng cách cung cấp các lớp học ảo trên các thiết bị di động của họ. GV dành nhiều thời gian để giao và theo dõi SV hơn so với mô hình lớp học truyền thống. Ngoài ra, GV còn có trách nhiệm cung cấp nguồn tài nguyên và môi trường học tập phong phú do SV, do đó, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. SỬ DỤNG M-LEARNING TRONG ĐÀO TẠO TÍN CHỈ 1. Những thế mạnh của M-learning có thể khai thác trong đào tạo tín chỉ Điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng đào tạo tín chỉ là: • Người học có cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn học liệu để chắt lọc ra những thông tin cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ học tập. • Phải tổ chức được việc tự học của SV một cách có hiệu quả. Căn cứ vào những thế mạnh của M-learning, ta có thể khai thác M-learning trong đào tạo tín chỉ theo các hướng sau: - Hỗ trợ việc kiểm tra, đánh giá. - Triển khai nhiệm vụ từ GV đến SV và nhận phản hồi thông qua tin nhắn SMS. - Hỗ trợ việc tự học của SV - Hỗ trợ chức năng sổ tay tri thức trên ĐTDĐ. - Tạo trang wab trên ĐTDĐ hỗ trợ SV tự học. - Tạo ra môi trường học tập cá thể hoá. - Tạo ra môi trường học tập hợp tác. - Tạo ra môi trường học tập trên lớp và học tập ngoài lớp... 2. M-learning tạo ra môi trường thuận lợi cho việc tự học của SV Các mô đul kiến thức được tải lên các trang web sẽ trợ giúp SV tự học hoàn thành nhiệm vụ chiếm lĩnh kiến thức và có điều kiện phát triển tối đa năng lực của bản thân. Mặt khác, việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mỗi SV không làm ảnh hưởng tới các SV khác, những SV hoàn thành sớm nhiệm vụ học tập có thể tiếp tục tiếp cận với các nội dung mới, nhiệm vụ mới để phát huy hết khả năng của bản thân. Các thông tin dạng đa phương tiện tạo ra một môi trường thuận lợi, một thế giới sinh động thu nhỏ để kích thích trí tò mò, gợi nhu cầu tìm hiểu, khám phá... giúp SV chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức. SV chủ động lên kế hoạch, triển khai việc tự học của mình tại bất kỳ một thời điểm nào mà bản thân có nhu cầu nhờ và truy cập các chương trình hướng dẫn qua thiết bị di động. Song song với việc khai thác M-learning nhằm “cá nhân hoá” việc học tập của mỗi SV, ta có thể khai thác M-learning để góp phần hình thành và phát triển năng lực lập kế hoạch, hoạt động hợp tác giữa các SV trong nhóm khi cùng tham gia một diễn đàn. Như vậy, M-learning đã làm cho quá trình dạy học không còn bị ràng buộc bởi không gian và thời gian. SV có thể học ở mọi nơi, học mọi lúc, học suốt đời. Việc học tập trở nên uyển chuyển, linh hoạt, căn cứ vào nhu cầu của SV. SV được phép lựa chọn những phương thức học tập có hiệu quả, lựa chọn nội dung bài giảng và các tài liệu có liên quan phù hợp với năng lực bản thân. SV chủ động trao đổi và khai thác các thông tin trên Internet nhằm đáp ứng nhu cầu về kiến thức Trịnh Thị Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12): 45 - 50 48 liên quan đến nội dung học tập của mình. M- learning cũng đã tạo ra một môi trường tương tác để người học hoạt động và thích nghi trong môi trường đó. Như vậy, M-learning tạo điều kiện cho người học độc lập với mức độ cao và hỗ trợ cho người học vươn lên trong quá trình học tập. 3. Sử dụng M-learning triển khai tự học có hướng dẫn trực tiếp của GV Trong môi trường dạy học truyền thống, tự học có hướng dẫn trực tiếp của GV được hiểu là trong quá trình SV tự học luôn có GV ở bên cạnh để đưa ra các hỗ trợ khi cần thiết. Như vậy, GV chỉ có thể hướng dẫn trực tiếp SV qua các giờ lên lớp. Tuy nhiên thời lượng dành cho lên lớp của GV đã được cố định và chủ yếu để giảng giải kiến thức mới nên rất khó để dành ra một thời lượng cho việc hướng dẫn SV tự học trong các giờ chính khóa. Trong điều kiện có sự hỗ trợ của M-learning, khái niệm tự học có hướng dẫn được mở rộng. Hình thức tự học có hướng dẫn là hình thức học tập, trong đó SV nhận được sự hỗ trợ trực tiếp của GV trên lớp học hay được thực hiện qua mạng Internet. M-learning sẽ giúp GV “mở rộng thời gian” hướng dẫn SV tự học dưới nhiều hình thức, chẳng hạn: - GV giao nhiệm vụ, hướng dẫn SV tự học thông qua tin nhắn MMS - GV và SV cùng online để sử dụng chức năng “chat” trao đổi thông tin. - Sử dụng chức năng “chat video” truyền tải thông tin đa phương tiện thì không khác gì GV đang lên lớp hướng dẫn cho SV, chỉ khác ở chỗ lớp học được tổ chức trực tuyến qua Inernet. - Sử dụng chức năng “Group” cho phép nhiều SV cùng nghe GV hướng dẫn bạn tự học, qua đó cũng có thể đồng hành cùng bạn tự học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GV. Như vậy mọi khó khăn của SV đều nhận được sự hướng dẫn trực tiếp của GV một cách kịp thời và chắc chắn SV sẽ có nhiều cơ hội hơn để hoàn thành nhiệm vụ tự học. 4. Sử dụng M-learning trong tự học không có hướng dẫn trực tiếp của GV Trong điều kiện truyền thống, để SV có thể tự học trong điều kiện không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV, thì GV phải biên tập và chuyển tới tay SV các tài liệu học tập. Hạn chế lớn nhất của hình thức này là tài liệu chỉ có thể trình bày kiến thức mà không có những chỉ dẫn về phương pháp hoạt động để dẫn đến kiến thức, để hình thành kĩ năng. Bởi vậy SV rất bị động, đọc đến dòng nào trong thì biết đến dòng ấy không hiểu phương hướng bước đi kế hoạch như thế nào và sau khi đọc xong cũng không thể tự rút ra được điều gì về phương pháp làm việc để vận dụng cho các nhiệm vụ sau. Để kịp thời hỗ trợ SV trong việc tự học ở hình thức này, GV hoàn toàn có thể sử dụng M- learning để tạo ra một “GV ảo” luôn ở bên cạnh SV, cụ thể: - GV thiết kế các tài liệu điện tử có tương tác để cài đặt nhiệm vụ và dự kiến trước các hướng dẫn để SV hoàn thành nhiệm vụ tự học cũng như các câu hỏi dạng trắc nghiệm để kiểm tra kết quả tự học của HV. Ta có thể hình dung nội dung kiến thức SV cần chiếm lĩnh được cấu trúc dưới dạng lặp không biết trước số lần. Nội dung tự học được thiết kế thành các “liều”. Chỉ khi nào SV hoàn thành nhiệm vụ đang thực hiện thì tài liệu mới mở ra nhiệm vụ mới. Với mỗi nhiệm vụ tự học (liều) tùy vào sai lầm của SV, tài liệu sẽ đưa ra các hướng dẫn tương ứng. - SV truy cập vào web site nhận nhiệm vụ, nghiên cứu tài liệu và trả lời các câu hỏi. Trong quá trình tự học, SV sẽ tương tác với tài liệu để nhận nhiệm vụ, khẳng định kết quả tự học cũng như nhận được các thông tin hỗ trợ để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ tự học - Với khả năng tương tác, các tài liệu điện tử ngoài việc trình bày nội dung kiến thức, còn hướng dẫn cả cách thức hoạt động để phát hiện vấn đề, thu thập thông tin, xử lí thông tin, rút ra kết luận, kiểm tra và đánh giá kết quả... Trịnh Thị Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12): 45 - 50 49 Thông qua trang web, GV thu nhận thông tin phản hồi về kết quả học tập của SV sau quá trình tự học và sẽ giúp đỡ điều chỉnh nhịp độ học tập của SV sau đó. Như vậy, mặc dù không cần có mặt trực tiếp, nhưng GV vẫn có thể dẫn dắt SV kĩ năng tự học từ thấp lên cao, tự học từng phần cho đến tự học hoàn toàn. 5. Sử dụng M-learning hỗ trợ SV tự học không có hướng dẫn của GV Đây là hình thức SV tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên. Hình thức này gần với việc tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá trình tự học này đi đến sự sáng tạo và tri thức khoa học mới (đối với SV tại thời điểm đó). Dạng tự học này đòi hỏi SV có một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Ta sẽ phân tích rõ vai trò của M-learning trong hình thức tự học này. - M-learning làm nảy sinh động cơ tự học của SV: Internet sẽ đưa SV vào siêu sa lộ thông tin, trong vô vàn vấn đề sẽ có những vấn đề gây được sự chú ý của SV, hoặc khi SV truy cập các diễn đàn, sẽ đọc được những thắc mắc, những kết quả của các SV khác đưa lên diễn đàn dẫn đến việc nảy sinh động cơ muốn tìm hiểu, làm sáng tỏ vấn đề. - M-learning cung cấp các thông tin để giúp SV rút ra kết luận của bản thân mình: Đứng trước một vấn đề, SV hoàn tìm được các thông tin liên quan. Việc nghiên cứu các thông tin này sẽ từng bước giúp SV tích lũy kiến thức và giải quyết thỏa đáng nhiệm vụ tự học mà SV đã tự đặt ra cho mình. - M-learning giúp SV chia sẻ, kiểm chứng kết quả tự học của mình: Trước hết trong quá trình tìm tòi, khám phá kiến thức, SV có thể đưa vấn đề mình đang nghiên cứu lên các diễn đàn để chia sẽ và nhận được các thông tin hỗ trợ từ các SV khác. Tiếp theo SV đưa kết quả, nhận định của mình lên diễn đàn để nhờ mọi người cùng kiểm chứng. 6. Sử dụng M-learning hỗ trợ SV hình thành phương pháp tự học Phương pháp tự học của SV được thể hiện qua một số đặc trưng sau: - Biết cách xây dựng kế hoạch và thời gian biểu tự học hợp lý. - Biết cách thức làm việc độc lập, bao gồm: Biết đọc tài liệu một cách có hệ thống, biết phân chia dung lượng kiến thức hợp lý để tiến hành học tập cho có hiệu quả, biết liên hệ, vận dụng lý thuyết để giải quyết các bài tập trong quá trình học ở trên lớp và trong thực tiễn. - Biết cách phân tích, tổng hợp, so sánh. - Biết ôn tập, tổng hợp kiến thức một cách tự giác, thường xuyên nhằm đánh giá được sự tiến bộ của bản thân. - Biết tranh luận và biết trình bày quan điểm của mình. - Biết tập trung tư tưởng, tiết kiệm thời gian học tập. - Biết tự kiểm tra, tự đánh giá trình độ của bản thân Với các nội dung đã chỉ ra ở phần trên, ta thấy rõ nếu SV tự học trong môi trường có sự hỗ trợ của M-learning thì các đặc trưng trên sẽ được hình thành và phát triển một cách hoàn tự nhiên, đơn cử: - Với sự phát triển của các tài liệu điện tử có tính tương tác cao, SV sẽ luôn làm chủ được quá trình tiếp cận, chiếm lĩnh tri thức cũng như liên hệ, vận dụng kiến thức vào thực tiễn học tập của bản thân. - M-learning cho phép việc tự học diễn ra mọi lúc, mọi nơi, không phụ thuộc vào không gian, thời gian. Như vậy, mỗi SV đều có thể lên được một kế hoạch tự học phù hợp với điều kiện bản thân mình. - Việc tham gia các diễn đàn cho phép SV dễ dàng trao đổi, trình bày quan điểm, kết quả với các thành viên dưới hình thức online hoặc ofline. Kết hợp việc trao đổi thông tin với việc tự kiểm tra kiến thức qua hình thức kiểm tra qua mạng, SV sẽ tự đánh giá mình và đưa ra những sự điều chỉnh hợp lý và kế hoạch tự học tiếp theo cho bản thân. Trịnh Thị Phương Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12): 45 - 50 50 KẾT LUẬN Qua kết quả tìm hiểu về M-learning trên thế giới ta có thể khẳng định M-learning là một hình thức dạy học mới gắn liền với những thành tựu khoa học công nghệ của thế kỷ XXI. Điều kiện của Việt Nam hiện nay hoàn toàn cho phép ta bắt tay vào nghiên cứu và triển khai M-learning trong đào tạo tín chỉ. Nếu ta xác định được những phương án phù hợp và đưa ra được các biện pháp cụ thể để khai thác được những ưu thế của M-learning thì chắc chắn sẽ hỗ trợ rất tốt cho SV trong quá trình tự học qua đó tác động tích cực đến chất lượng đào tạo tín chỉ trong quá trình đào tạo ở nhà trường sư phạm. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Andreas Holzinger (2005), Mobile phone as a challenge for M-learning: experiences with the mobile learning engine using mobile interactive learning objects, Graz Medical University. [2]. Clark, S.; Westcott, M. (2007), Using short podcasts to reinforce lectures, The University of Sydney Symposium. [3]. Jimmy D. Clark, M.Ed, Learning and Teaching in the Mobile Learning Environment of the Twenty-First Century, Texas April, 2007 [4]. Basics_Of_Mobile_Learning, www.mobl21.com/Basics_Of_Mobile_Learn ing.pdf SUMMARY EXPLOIT M-LEARNING IN CREDIT TRAINING Trinh Thi Phuong Thao* College of Education – TNU The article mentions the appliance of a teaching method basing on the high development of M- learning technology in credit training. It focuses on analysing how to make full use of the advantages of M-learning in helping students selfstudy - a crucial factor to the quality of credit training. Key words: M-learning; credit training; selfstudy; mobile; teaching method. Phản biện khoa học: TS. Vũ Mạnh Xuân – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên * ĐT: 0983053500

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhai_thac_m_learning_trong_dao_tao_tin_chi.pdf
Tài liệu liên quan