Khái niệm về chính sách tiền tệ

Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá trình quản lý cung tiền (money supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn (targeting interest rate) để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.

doc14 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Khái niệm về chính sách tiền tệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
*Khái niệm về chính sách tiền tệ: Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá trình quản lý cung tiền (money supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn (targeting interest rate) để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. Các công cụ của chính sách tiền tệ Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các Ngân hàng thương mại. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái:Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. * Chính sách tiền tệ của chính phủ Việt Nam hiện nay. - Nhấn mạnh chính sách tỉ giá và ngoại hối, Thống đốc NHNN – ông Nguyễn Văn Giàu - cho hay, tỉ giá và quản lý ngoại hối trong năm 2011 sẽ linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường, phù hợp với diễn biến lãi suất, cân đối hài hòa cung – cầu ngoại tệ. Sự điều hành này nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường và thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, giảm dần tình trạng đôla hoá trong nền kinh tế, thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán. Thị trường vàng và thị trường ngoại tệ cũng sẽ được theo dõi và quản lý chặt chẽ hơn - Chính sách tiền tệ sẽ tiếp tục được thắt chặt’ + Chính phủ khẳng định chủ trương “ổn định vĩ mô, tăng trưởng hợp lý” sẽ là mục tiêu nhất quán trong điều hành năm nay cũng như cả nhiệm kỳ 2011-2015. Chính sách tiền tệ, do đó, sẽ tiếp tục được thắt chặt + Quan điểm này vừa được Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam thông báo tại phiên họp báo thường kỳ, diễn ra chiều 26/9. + Theo Bộ trưởng Đam, sau 2 ngày làm việc (25-26/9), Chính phủ đã dành nhiều thời gian đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng, xác định phương hướng điều hành trong thời gian còn lại của năm 2011 cũng như cả nhiệm kỳ 2011-2015 + Qua những kết quả kinh tế xã hội được đánh giá là “có nhiều khởi sắc” trong 9 tháng, Chính phủ nhận định mục tiêu tăng trưởng 6% của cả năm 2011 là có thể đạt được. Tuy vậy, trước tình hình thế giới còn nhiều biến động phức tạp, cơ quan điều hành cho rằng kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. - “Nghị quyết 11, do đó, sẽ tiếp tục được thực hiện không những trong năm nay mà còn vài năm tới. Ổn định vĩ mô, tăng trưởng hợp lý sẽ là mục tiêu trọng tâm của cả nhiệm kỳ”, người phát ngôn của Chính phủ khẳng định. - Để làm cơ sở cho chủ trương nói trên, Thường trực Chính phủ đã giao 3 Bộ là Tài chính, Kế hoạch & Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước và Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia tiến hành nghiên cứu độc lập về nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam. + Kết quả cho thấy tình trạng trượt giá kéo dài bắt nguồn từ nhiều lý do, trong đó có việc đầu tư nhiều hơn so với tiết kiệm (tăng trưởng tín dụng thường xuyên trên 30% một năm, trong khi khả năng quản lý vốn còn yếu kém), độ mở lớn khiến nền kinh tế dễ chịu tác động từ bên ngoài, đặc biệt là khi xảy ra lạm phát giá lương thực… + Tuy nhiên, Chính phủ khẳng định nguyên nhân quan trọng nhất gây lạm phát ở Việt Nam là vấn đề tiền tệ. Chính những bất ổn kéo dài này đã đè nặng lên tâm lý người dân, khiến niềm tin vào tiền đồng ngày một suy giảm: “Nghiên cứu cho thấy lạm phát tâm lý tăng 1% thì lạm phát thực tăng 0,64%. Trong khi tăng lãi suất 1% thì chỉ phản ánh vào CPI 0,03%”, Bộ trưởng Vũ Đức Đam chia sẻ. - Xác định được những nguyên nhân nêu trên, Chính phủ khẳng đinh sẽ tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trong thời gian tới. Mặc dù dư địa để tăng trưởng tín dụng vẫn còn nhiều (kết thúc tháng 8 mới tăng 8,15% so với cuối năm 2010) nhưng Ngân hàng Nhà nước sẽ không sử dụng hết hạn mức 20%. Tăng cung tiền cũng sẽ không chạm ngưỡng 16%. “Tôi có thể khẳng định tăng trưởng tín dụng và tiền tệ cả năm sẽ thấp hơn những con số này khoảng 3%”, ông Đam cho biết. - Thừa nhận việc thắt chặt tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp cũng như kết quả thu hút vốn đầu tư, Chính phủ cho biết sẽ thực hiện đồng thời nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn như kiên trì chủ trương giảm lãi suất, khắc phục những vướng mắc tại các dự án FDI… - Nhà nước lâu nay vẫn phải bù lỗ cho doanh nghiệp để các sản phẩm như điện, xăng dầu được bán ra với giá thấp hơn thị trường. Đây là một trong những căn nguyên sâu xa dẫn đến lạm phát. - “Chủ trương điều hành hiện nay là một mặt vẫn phải tính toán lộ trình, một mặt sẽ đưa giá các mặt hàng theo hướng tiến gần tới thị trường. Không thể vì lạm phát mà tiếp tục bao cấp”, đại diện Chính phủ khẳng định. - Cũng tại buổi họp báo, đại diện Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cũng có phát biểu để giải đáp một số vấn đề đang được dư luận quan tâm. + Về những biến động trong những ngày qua trên thị trường vàng, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Đồng Tiến một lần nữa đề nghị người dân bình tĩnh, tránh chạy theo các thủ đoạn thổi giá của tư thương. Tuy vậy, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết cơ quan này sẵn sàng cho nhập vàng để bình ổn thị trường. Chi tiết của chủ trương này sẽ được công bố sau khi Thống đốc Nguyễn Văn Bình trở về từ chuyến công tác nước ngoài vào ngày mai (27/9). - Giải đáp thắc mắc của báo chí liên quan đến việc quản lý nợ quốc gia, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Công Nghiệp cho biết, tính đến hết năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam tương đương 42,2% GDP (trong đó 62% là nợ của Chính phủ, còn lại là của doanh nghiệp). Con số này theo đại diện Bộ Tài chính vẫn nằm trong ngưỡng an toàn. Trong khi đó, Bộ trưởng Vũ Đức Đam cho biết, trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng nợ để phục vụ yêu cầu phát triển. . - Một vấn đề liên quan khác là lượng dự trữ ngoại hối của Việt Nam. Mặc dù không công bố con số cụ thể nhưng theo ước tính hiện nay dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn còn khoảng một nửa so với thời điểm cao nhất của năm 2007. Mặc dù có kém hơn so với trước đó, nhưng khi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực diễn ra năm 1997 thì ở thời điểm đó, việc điều chỉnh tỷ giá khó hơn hiện nay rất nhiều. - Điều chỉnh tỷ giá ở mức hợp lý, tránh méo mó với thị trường là một việc làm quan trọng, giúp dự báo được chiều hướng của hoạt động kinh doanh. Việc triển khai các hoạt động đầu tư kinh doanh sẽ thuận lợi hơn và cũng góp phần ổn định vĩ mô. Đương nhiên, để làm được tốt hơn việc ổn định vĩ mô thì cần phải làm rất nhiều việc khác liên quan đến cơ chế lãi suất, chi tiêu ngân sách, điều hành hoạt động thương mại để kiểm soát nhập siêu, thúc đẩy xuất khẩu… - “Thắt” sao cho vẫn “thở” được + Nhiều doanh nghiệp băn khoăn, với tình hình đang diễn ra như hiện nay, khi mọi thứ đều tăng từ tỷ giá, giá xăng dầu, điện…, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn cả đầu vào lẫn đầu ra. Các chính sách hiện nay đang tập trung để ổn định kinh tế vĩ mô nhưng lại khiến cho doanh nghiệp khó phát triển? * Ảnh hưởng của chính sách tỷ giá đến các chu kì hoạt động kinh doanh trên thị trường ngoại hối Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về tỷ giá hối đoái, do cách tiếp cận vấn đề khác nhau, đôi khi do cách diễn đạt khác nhau. Tỷ giá hối đoái là giá của đồng tiền này được tính theo một đồng tiền khác. Tỷ giá hối đoái cũng được hiểu là tỉ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của hai quốc gia khác nhau. Tỷ giá hối đoái xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời, phát triển của thương mại quốc tế, nó được giải thích bởi một hiện tượng đơn giản, hàng hoá không có biên giới quốc gia trong khi tiền chỉ được chấp nhận trên lãnh thổ quốc gia phát hành ra nó. Tỷ giá hối đoái, tức tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền cao hay thấp đựơc quyết định bởi các lực lượng thị trường, cung và cầu. Cung ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn bán ra để thu về nội tệ. Cầu ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn mua vào bằng các đồng nội tệ. Giá cả ngoại tệ, tỷ giá hối đoái cũng được xác định theo quy luật cung cầu như đối với các hàng hoá thông thường. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ sẽ làm cho giá ngoại tệ giảm, tức tỷ giá hối đoái tăng. Ngược lại, khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ giá ngoại tệ sẽ tăng, tức tỷ giá giảm. ở vị trí cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ xác định trạng thái cân bằng, không có áp lực làm cho tỷ giá thay đổi. Ta có thể hình dung cơ chế hình thành tỷ giá được hiểu thị từ khi có sự khác nhau về cung và cầu ngoại tệ. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần bán ra nhiều hơn lượng ngoại tệ cần mua vào, khi đó có một số người không bán được sẽ sẵn sàng bán với mức giá thấp hơn và làm cho giá ngoại tệ trên thị trường giảm. Tư duy tương tự, khi cầu lớn hơn cung, một số người không mua được ngoại tệ sẵn sàng trả giá cao hơn và gây sức ép làm giá ngoại tệ trên thị trường tăng. Khi cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần mua đúng bằng lượng ngoại tệ cần bán làm cho giá ngoại tệ không đổi, thị trường cân bằng. Chúng ta có thể thấy, tỷ giá hối đoái trên thị trường luôn thay đổi. Có rất nhiều nhân tố tác động gây ra sự biến động của tỷ giá hối đoái với những mức độ và cơ chế khác nhau. Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cấn cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá. Đầu tư ra nước ngoài, cú ảnh hưởng tới tủ giỏ hối đoỏi cư dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doang nghiệp...) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu...). Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài,tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hoá, luồng vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ. Lạm phát ảnh hưỏng đến tỷ giá hối đoái. Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng. Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối đoái đó là tâm lý số đông. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng. Trong thực tế, tỷ giá hối đoái bị chi phối đồng thời bởi tất cả các yếu tố trên với mức độ mạnh yếu khác nhau của từng nhân tố, tuỳ vào thời gian và hoàn cảnh nhất định. Việc tách rời và lượng hoá ảnh hưởng của từng nhân tố là việc làm không thể. Các nhân tố trên không tách rời mà tác động tổng hợp, có thể tăng cường hay át chế lẫn nhau, đến tỷ giá hối đoái làm cho tỷ giá hối đoái luôn biến động không ngừng. Vì vậy ảnh hưởng do chính sách tiền tệ đem lại tác động đến thị trường ngoại hối chính là chính sách về tỷ giá. Tùy vào từng thời kì của chu kì hoạt động kinh doanh mà nhà nước đưa ra các chính sách thắt chặt hay mở rộng làm ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối.vì thị trường ngoại hối cả liên quan mật thiết đến thị trường nội tệ ,các chính sách làm ảnh hưởng trực tiếp đến cung và cầu ngoại tệ.có thế nói khi nền kinh tế tăng trưởng thì đồng nghĩa với việc quốc gia đó trở lên vững mạnh hơn thì đồng tiền cũng có giá trị hơn nhưng nếu tăng trưởng quá nóng rồi dẫn đến lạm phát lại làm cho đồng nội tệ mất giá đẩy giá ngoại tệ tăng cao.chính sách tiền tệ nhăm mục đích ổn đinh tình hình kinh tế cũng đồng nghĩa với việc ổn định được thị trường ngoại hối ( ổn định cung cầu ngoại tệ) Một lần nữa ta nhắc lại về tỷ giá trong chính sách tiền tệ Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. Việc điều tiết thị trường ngoại hối ở nước ta vẫn còn sơ sài và bộ lộ nhiều yếu kém. *Một vài thông tin về cách việc điều chỉnh chính sách tiền tệ có liên quan đến thị trường ngoại hối như : - Năm 2009, tỉ giá USD/VND tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỉ giá lên ±5% khiến cho tỉ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến. - Năm 2010, giá USD đã tăng khá mạnh trong năm 2009, sang đến tháng 1/2010 lại giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479đồng/USD cho đến giữa tháng 2/2010. Nguyên nhân là do: Nguồn cung USD có thể tăng từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp; từ vốn hỗ trợ phát triển chính thức; từ vốn đầu tư gián tiếp; từ nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; nguồn thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại; kim ngạch xuất khẩu chuyển từ tăng trưởng âm (-) sang tăng trưởng dương (+)… Bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý găm giữ USD do lo sợ rủi ro tỉ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm yết trên thị trường chính thức đã giảm đáng kể. - Đến cuối năm 2010, thị trường ngoại hối VN rơi vào tình trạng căng thẳng khi cầu ngoại tệ quá lớn, trong khi nguồn cung lại khan hiếm. Điều này khiến cho giá USD/VND tăng mạnh, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô. - 6 tháng đầu năm 2011, với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, điểm nổi bật nhất của thị trường ngoại tệ là duy trì được sự ổn định. Tỉ giá giao dịch dần hạ xuống. Bắt đầu từ sự “giảm nhiệt” của tỉ giá trên thị trường tự do, chênh lệch tỉ giá giữa thị trường này so với thị trường chính thức giảm dần xuống, thậm chí có thời điểm còn thấp hơn cả thị trường chính thức – một hiện tượng hiếm thấy trong nhiều năm qua. - Trên thị trường chính thức, tỉ giá giao dịch của các NHTM thường ở mức thấp hơn biên độ tối đa theo quy định (1% so với tỉ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố); xen kẽ những ngày tăng, tỉ giá đã có nhiều ngày đứng và nhiều ngày giảm, đây là điều hiếm thấy trước đây. -Khi thị trường tự do bị thu hẹp, chênh lệch tỉ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức giảm thiểu, tỉ giá cơ bản ổn định và có xu hướng giảm, đã tạo thời cơ để NHNN mua vào ngoại tệ. Theo số liệu của NHNN, tính đến hết tháng 7, NHNN đã mua được 5 tỉ USD dự trữ ngoại hối, một động thái mà từ giữa năm 2008 đến trước tháng 5/2011 chưa thực hiện được. Các doanh nghiệp và người dân đã bắt đầu bán ngoại tệ cho ngân hàng; bước đầu chuyển dần quan hệ huy động và cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua – bán ngoại tệ giữa ngân hàng với khách hàng; việc niêm yết giá thanh toán, mua – bán trực tiếp bằng ngoại tệ đã được thu hẹp. - Xu thế phát triển + Kết quả tổng quát của việc ổn định thị trường ngoại tệ là góp phần vào việc chống đôla hóa, vàng hóa nền kinh tế, góp phần vào việc ổn định tâm lý, tạo tiền đề thực hiện việc kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố và nâng cao lòng tin vào đồng tiền quốc gia. - Tuy đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng cũng chưa thể chủ quan, bởi thị trường ngoại tệ còn đứng trước những thách thức không nhỏ. + Chênh lệch quá lớn giữa lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ khiến các doanh nghiệp đổ xô đi vay USD, sau đó bán ra lấy VND để phục vụ sản xuất kinh doanh, làm cho nguồn cung ảo USD trên thị trường gia tăng.  Các chuyên gia kinh tế lo ngại rằng, cung ảo này sẽ biến thành cầu thực khi các khoản vay đến kỳ đáo hạn và sẽ tạo áp lực lên tỉ giá những tháng cuối năm. + Nhập siêu liên tục tăng lên trong các tháng đầu năm làm cho cán cân thương mại, cán cân thanh toán bị mất cân đối, tạo sức ép lên tỉ giá. Mặt khác, theo thống kê từ đầu năm đến nay, nguồn ngoại tệ  từ  đầu tư  trực tiếp nước ngoài giảm, nguồn kiều hối sẽ khó tăng cao so với năm trước. Nguồn ngoại tệ từ đầu tư gián tiếp, hỗ trợ phát triển chính thức và khách quốc tế đến Việt Nam có thể tăng, nhưng không có ý nghĩa quyết định. + Tốc độ tăng CPI  tuy đã chậm lại, nhưng vẫn còn cao, nên yếu tố lạm phát vẫn hiện hữu. Người có vốn có thể vẫn chưa hết kỳ vọng vào các nơi “trú ẩn” an toàn, trong đó có ngoại tệ. + Các chính sách như thắt chặt tiền tệ, dẹp bỏ thị trường chợ đen, giảm mức trần lãi suất huy động USD… chỉ tác động ngắn hạn đến tỉ giá. Sự biến động tỉ giá trong dài hạn tùy thuộc vào mức độ nhập siêu và chỉ số lạm phát của Việt Nam trong tương lai. Và về lâu dài, để giải quyết tốt bài toán tỉ giá ở Việt Nam, cần phải giải quyết một cách căn bản bài toán nhập siêu và lạm phát nhằm tạo dựng lòng tin vững chắc vào tiền đồng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_2_2in_ngay_cai_nay_0445.doc