Đặt vấn đề: Sỏi trong gan là một bệnh lý khá phổ biến của khu vực Đông Á. Hiện nay, phẫu thuật cắt gan
được xem là phương pháp điều trị có hiệu quả tốt nhất với tỷ lệ sạch sỏi cao và tái phát thấp.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật cắt gan theo giải phẫu và theo thương tổn đường mật điều trị
sỏi trong gan.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp không nhóm chứng cắt dọc. Phẫu thuật cắt gan được thực
hiện với kỹ thuật bóc tách nguyên cuống Glisson của Ken Takasaki kết hợp với nội soi đường mật nhằm xác định và
kiểm soát việc lấy hết thương tổn. Kỹ thuật trên được chỉ định cho những trường hợp sỏi trong gan với: sỏi khu trú
không làm sạch được bằng nội soi đường mật, sỏi tái phát tại một vị trí, sỏi kèm hẹp đường mật, sỏi kèm gan bị hư
hại, sỏi kèm nghi ngờ hoặc xác định ung thư đường mật.
9 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 634 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Kết quả sớm của phẫu thuật cắt gan theo giải phẫu và theo thương tổn đường mật điều trị sỏi trong gan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính,
chưa có trường hợp nào bị chảy máu từ mạch
máu lớn như tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch chủ bụng
hay tĩnh mạch gan. Một số tác giả trong nước
cũng báo cáo tỷ lệ truyền máu gần 30% trường
hợp cho cắt gan giới hạn(21).
Biến chứng sau phẫu thuật
20/81 trường hợp (24,69%) có biến chứng.
Một số tác giả báo cáo tỷ lệ biến chứng thay
đổi tùy theo loại phẫu thuật: báo cáo của Văn
Tần là 17% trong nghiên cứu cắt và xẻ mô gan
lấy sỏi, Đỗ Tuấn Anh 11% cho 91 trường hợp
cắt gan trái điều trị sỏi trong gan, Nguyễn Cao
Cương 30,76%, Tung-Yen Lee 33,3%(11) và một
số tác giả Hồng Kông 28%(3). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tỷ lệ biến chứng tăng lên một
cách có ý nghĩa ở nhóm cắt gan có kèm theo
phẫu thuật phối hợp. Tuy nhiên, đa số là các
biến chứng nhẹ và chưa có tử vong.
Rò mật
Là một biến chứng thường được quan tâm
của tất cả các phẫu thuật viên mổ cắt gan. Tỷ lệ
biến chứng này không cao, tuy nhiên khi đã xảy
ra thì gây rất nhiều khó khăn cho bệnh nhân cũng
như cho bác sĩ điều trị, thậm chí có trường hợp
phải mổ lại.
Bảng 8- Tỷ lệ rò mật của một số tác giả
Tác giả Tỷ lệ
Văn Tần(21) 2/96 (2,08%)
Nguyễn Cao Cương(16) 3/132(2,27%)
Shao-Qiang Li(12) 23/312 (7,4%)
Đỗ Tuấn Anh(2) 0/91 (0%)
Chúng tôi 2/81 (2,46%)
Trong mẫu nghiên cứu, có một số trường
hợp có biểu hiện rò mật ở ngày 2, 3 sau mổ
nhưng sau đó tự hết ở tuần thứ 2, 3 thậm chí
tuần thứ tư. Chỉ có 2 trường hợp rò mật kéo
dài sau 30 ngày và chúng tôi cho đây là một
trong những trường hợp cần phải theo dõi và
can thiệp. Chúng tôi chỉ xem những trường
hợp rò mật kéo dài này là biến chứng.
Rò mật tự lành
Tổn thương một số ống mật nhỏ ở mặt cắt gan
không thông với đường mật: Khi phẫu thuật làm
cắt ngang những ống mật này cũng đồng thời làm
tổn thương mạch máu đi kèm nuôi phần gan đó
dẫn đến thiếu máu nuôi phần gan tương ứng và
làm phần gan này bị thoái hóa và mất chức năng,
hết tiết mật và rò tự lành.
Rò mật ở nhánh mật có thông với đường mật
chính: Sau cắt gan do sỏi, ta thường có dẫn lưu
đường mật nên áp lực đường mật không cao và
chỗ rò khép lại dần. Thời gian hết rò phụ thuộc
vào kích thước lỗ rò, kích thước ống mật rò, mức
độ dẫn lưu đường mật
Rò mật không tự lành
Rò ở ống mật có nối với đường mật chính
nhưng không thông tốt với đường mật bên dưới
vì bị hẹp hoặc tắc nghẽn do sỏi, do viêm hoặc do
u. Điều trị bằng cách làm thông thương đường
mật bên dưới chỗ rò hoặc cắt hết phần gan chứa
thương tổn làm tắc nghẽn đường mật do hẹp hoặc
u đường mật.
Rò ở ống mật không thông nối với đường mật
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Trưng Vương năm 2015 73
chính như cắt ngang đường mật, nhưng mạch
máu nuôi phần gan tương ứng vẫn còn. Vì vậy, rò
này không thể tự lành, thường phải phẫu thuật lại
cắt hết phần gan đó hoặc nối chỗ rò vào ruột.
Một số tác giả đã ghi nhận một số yếu tố nguy cơ trong
rò mật
Shao-Qiang Li(12), cắt gan sớm trước một tháng
khi bị viêm đường mật cấp là yếu tố ảnh hưởng
tới rò mật sau mổ.
Mizumoto(14), vì sự biến đổi của ống phân
thùy 1 và sự đổ bất thường của ống phân thùy
trước và phân thùy sau về bên trái, cắt gan trái là
yếu tố nguy cơ rò mật sau cắt gan.
Nakayama và CS(14) cho rằng cầm máu bằng
dao siêu âm có tỷ lệ rò mật cao hơn cầm máu
bằng clip (27% so với 3%).
Ngoài ra, một số tác giả cũng ghi nhận rò mật
thường xảy ra ở cắt gan lớn.
Suy gan
Là một trong những biến chứng nặng nề nhất
của phẫu thuật cắt gan. Suy gan thường xảy ra
khi: cắt gan lớn, viêm gan bùng phát sau cắt gan,
nằm trong bệnh cảnh suy nhiều cơ quan sau cắt
gan. Trong mẫu nghiên cứu có 9 trường hợp cắt
hết gan phải, đây là vấn đề thường được cân nhắc
đối với nhiều phẫu thuật viên cắt gan.
Các tác giả như Berci(2), Zhand lei-da(21,22),
Liang Lijian(12), Chen Kai-yun(3) đã thực hiện cắt
gan P, cắt nhiều thùy gan trong điều trị sỏi và đã
cho thấy sự an toàn cũng như kết quả điều trị sỏi
tốt. Những trường hợp này, có lẽ do gan bị sỏi lâu
ngày, viêm đường mật tái diễn nhiều lần nên gan
đã xơ teo và phần gan còn lại đã tăng sinh bù trừ.
Bảng 9: Biến chứng sau cắt gan của các tác giả
Tác giả Số
TH
Nhiễm
trùng Rò mật
Chảy
máu Áp xe
Viêm
phổi
Nguyễn
Cao
Cương(16)
52 11 (21%) 1 (1,9%) 1
(1,92%)
3
(5,7%)
Moon T.
Cheung(4) 52
17
(32,6%)
2
(3,84%) 1 (1,9%)
Tung Jeng
Lee(20) 123
21
(17,0%)
5
(4,06%) 2 (1,6%)
4
(3,2%)
Chúng tôi 81 10
(12,34%)
2
(2,46%)
1
(1,23%)
3
(3,7%)
2
(2,46%)
KẾT LUẬN
Sỏi trong gan là một bệnh lý phức tạp, đa số
các phương pháp điều trị lấy sỏi chỉ đạt được mục
tiêu làm sạch sỏi nhưng việc chống tái phát sỏi
vẫn còn là một thách thức đối với y học hiện nay.
Những kỹ thuật cắt gan trước đây cũng chưa
mang lại kết quả chống tái phát tốt do chưa kiểm
soát tốt thương tổn hẹp đường mật. Hiện nay, nếu
chọn lựa bệnh nhân và chỉ định phù hợp, đa số
tác giả đồng thuận phẫu thuật cắt gan theo giải
phẫu và theo thương tổn đường mật là phương
pháp điều trị sỏi triệt để nhất và là phương pháp
chống tái phát tốt nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adamek ASA, Pitt HA (2012). Biliary Tract. In: Sabiston Textbook
of Surgery. Edited by Townsend C.M. 17th edition. Philadelphia
Saunders: 1597-1641.
2. Berci G (2012). Choledochoscopy Surgery of the liver and biliary
tract. Edited by Blumgart L.H., Fong Y. Third edition.
Philadelphia: Saunders: 491-498.
3. Chen DW, Tung-Ping Poon R, Liu CL, Fan ST, Wong J.(2004).
Immediate and long-term outcomes of hepatectomy for
hepatolithiasis. Surgery; 135(4): 386-93.
4. Cheung MT, Kwok PC (2005). Liver
resection for intrahepatic stones. Arch Surg; 140(10):993-7.
5. Đặng Tâm (2004). Xác định vai trò của phương pháp tán sỏi mật
qua da bằng điện-thủy lực. TP HCM. Luận án Tiến sĩ. Trường Đại
học Y Dược TP HCM: 92-113.
6. Đỗ Tuấn Anh, (2008). Đánh giá kết quả ứng dụng kỹ thuật cắt gan
theo phương pháp Tôn Thất Tùng trong điều trị bệnh sỏi trong
gan. Luận án tiến sĩ. Học viện Quân Y.
7. Hui H, Hong W, et al. (2010). An Appraisal of Anatomical and
Limited hepatectomy for Regional Hepatolithiasis. HBP. Surg:
7916-25.
8. Jarufe N; (2012). Anatomic hepatectomy as a definitive treatment
for hepatolithiasis a cohort study. DOI: 10.1111/J.1477 – 2574.
00488.
9. Ken T (2007). Glissonean Pedicle Transection Method for Hepatic
Resection. Springer: 1-88.
10. Lee SK, Seo DW, Myung SJ et al. (2001). Percutaneous transhepatic
cholangioscopic treatment for hepatolithiasis: an evaluation of
long-term results and risk factors for recurrence. Gastrointest Endosc;
53(3): 318-23.
11. Lee TY, Chen YL, Chang HC, Chan CP, Kuo SJ. (2007). Outcomes
of hepatectomy for hepatolithiasis. World J Surg; 31(3):479-82.
12. Li SQ, Liang LJ, Hua YP (2009). Bilateral Anatomic
Segmentectomy/ Sectionectomy for Complicated Intrahepatic
Stones. Journal of Sun Yat-Sen University Medical Sciences, 12(3): 24 -
28.
13. Li SQ, Liang LJ, Peng BG. (2007). Bile leakage after
hepatectomy for hepatolithiasis: risk factors and management.
Surgery; 141(3):340-5.
14. Mizumoto R, Suzuki H. (1988). Surgical anatomy of
the hepatic hilum with special reference to the caudate lobe. World
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Trưng Vương năm 2015 74
J Surg; 12(1):2-10.
15. Nakayama H, Masuda H, Shibata M (2003).
Incidence of bile leakage after three types of hepatic parenchymal
transection. Hepatogastroenterology; 50(53):1517-20.
16. Nguyễn Cao Cương, Phan Hiệp Lợi, Lê văn Cường, Văn Tần
(2004). Cắt gan điều trị sỏi trong gan, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí
Minh, 8(1), tr. 268-273.
17. Riberolles. CD, Bismuth. H (2007). Anatomie chirugicale du foie,
EMC. Paris, 40760-4.2.07.
18. Tabrizian P, Jibara G, Shrager B. (2012). Hepatic resection for
primary hepatolithiasis: a single-center Western experience. J Am
Coll Surg; 215(5):622-6.
19. Tôn Thất Tùng (1971). Cắt gan. NXB Y học Hà Nội, tr. 5-73.
20. Tung YL, et al (2007). Outcomes of hepatectomy for
Hepatolithiasis. World journal of Surgery, Volume 31, Issue 3:479 –
482.
21. Văn Tần (2002). Cắt gan, xẻ gan hay phối hợp để lấy sỏi trong gan:
Đặc điểm, chỉ định và kết quả. Y học TP. Hồ Chí Minh, 6(2), tr. 252 -
262.
22. Zhand LD (2006). Value of intraoperative choledochoscopy in
anatomic hepatectomy for hepatolithiasis. Acta Academiae Medicinae
Militaris Tertiae; 8(3):128-132.
Ngày nhận bài báo: 03/8/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 12/8/2015
Ngày bài báo được đăng: 05/10/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 66_74_535.pdf