Số người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện ở Việt Nam tăng nhanh trong những năm cuối của thập kỷ 90 cho
thấy khả năng lan truyền mạnh của dịch HIV, với các mức độ khác nhau trong nhiều nhóm quần thể nguy cơ,
nhất là ở các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, TP HCM, Cần Thơ, An Giang. Mặc dù dịch
HIV ở Việt Nam hiện vẫn đang trong giai đoạn “dịch tập trung”, tác động chủ yếu tới những quần thể có nguy
cơ cao như người tiêm chích ma tuý, phụ nữ mại dâm và khách hàng của họ, và những người có hành vi tình
dục không an toàn với nhóm quần thể có nguy cơ cao, tuy nhiên, đã có những bằng chứng cho thấy dịch
HIV đã lây truyền trong các nhóm quần thể nguy cơ thấp và có khả năng thay đổi nhanh với những diễn biến
phức tạp. Kết quả nghiên cứu “Ước tính và dự báo nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam 2005 – 2010” do Bộ Y tế và Tổ
chức Sức khoẻ gia đình Quốc tế, với sự hỗ trợ của USAID, tiến hành năm 2004 cho thấy ước tính có 263.470
người nhiễm HIV vào năm 2005 và dự báo đến năm 2010 sẽ có 311.500 người nhiễm ở Việt Nam.
Hệ thống giám sát HIV/AIDS quốc gia được thiết lập từ năm 1994 đã cung cấp kịp thời những thông tin cập
nhật phục vụ công tác hoạch định chính sách và xây dựng kế hoạch phòng chống HIV/AIDS. Ước tính và
dự báo HIV/AIDS 2005-2010 đã được sử dụng để phục vụ cho việc xây dựng và triển khai Chiến lược phòng
chống HIV/AIDS của Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Tuy nhiên, diễn biến dịch HIV hoàn toàn có
thể được cảnh báo sớm nhờ giám sát hành vi của mỗi cá nhân và sự thay đổi hành vi của họ là một trong
những yếu tố quyết định diễn biến dịch HIV. Do vậy, bên cạnh hệ thống giám sát huyết thanh học HIV,
từ năm 2000, Bộ Y tế đã bắt đầu thực hiện các điều tra giám sát hành vi liên quan tới lây nhiễm HIV/AIDS
nhằm bổ sung thông tin cho công tác phòng chống HIV/AIDS.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ Kế hoạch khẩn cấp phòng chống AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR),
năm 2005-2006 Bộ Y tế, Viện Vệ Sinh Dịch Tế Trung Ương đã tiến hành điều tra giám sát kết hợp hành vi và
các chỉ số sinh học tại 7 tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP HCM, Cần Thơ và An
Giang. Đây là một điều tra có hệ thống trên quy mô cộng đồng, tập trung vào các nhóm có nguy cơ cao lây
nhiễm HIV cao nhất (người nghiện chích ma tuý, phụ nữ mại dâm và nam quan hệ tình dục đồng giới) nhằm
cung cấp các chỉ số về hành vi, cũng như tỷ lệ hiện nhiễm HIV và các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình
dục. Những kết quả chính từ cuộc điều tra được tổng hợp trong báo cáo “Kết quả chương trình giám sát kết
hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam”.
Bộ Y tế trân trọng giới thiệu báo cáo này với các cơ quan tham gia phòng chống AIDS tại Việt Nam và các bạn
đồng nghiệp, tin tưởng rằng báo cáo này sẽ cung cấp được những thông tin có giá trị cho việc xây dựng các can
thiệp dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS hiệu quả và giúp theo dõi, đánh giá chương trình trong thời gian tới.
Nhân dịp xuất bản báo cáo, Bộ Y tế trân trọng cảm ơn sự hợp tác của cơ quan phòng chống AIDS các địa
phương trên địa bàn nghiên cứu, các cán bộ trực tiếp tham gia chương trình. Bộ Y tế đánh giá cao sự hỗ
trợ tài chính và kỹ thuật từ Cơ quan hợp tác phát triển Hoa Kỳ (USAID), Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa
Kỳ (CDC) và Tổ chức sức khoẻ gia đình quốc tế (FHI) trong việc thực hiện chương trình này
82 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học hiv/sti (ibbs) tại Việt Nam 2005 – 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆT NAM • 2006
06
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (NIHE)
Số 1 Yersin, Hà Nội
Tel: (84-4) 972 1005
Fax: (84-4) 821 0541
Email: tuan-nihe@hn.vnn.vn
FHI/Việt Nam
Tầng 3, số 1 Bà Triệu, Hà Nội
Tel: (84-4) 934 8560
Fax: (84-4) 934 8550
Email: fhivn@fhi.org.vn
Kết quả Chương trình giám sát
kết hợp hành vi và các chỉ số
sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam
2005 – 2006
BỘ Y TẾ
Cơ quan tham gia Chương trình
Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương (nihE)
Nguyễn Trần Hiển
Nguyễn Anh Tuấn
Bùi Đức Thắng
tổ chức sức khoẻ gia đình quốc tế (Fhi)
Stephen J. Mills
Nguyễn Duy Tùng
Trần Vũ Hoàng
Nguyễn Đức Dương
Cục Phòng Chống hiV/aiDS Việt nam (VaaC)
Nguyễn Thanh Long
Phan Thị Thu Huơng
trung tâm phòng chống và kiểm soát bệnh tật hoa Kỳ (CDC)
Mitchell Wolfe
Lê Nguyễn Linh-Vy
Ray L Ransom
Cơ quan phát triển quôc tế hoa Kỳ (uSaiD)
Nguyễn Minh Thắng
PhÂn tÍCh SỐ LiỆu VÀ ChuẨn BỊ BÁO CÁO
Trần Vũ Hoàng
Nguyễn Anh Tuấn
Stephen J. Mills
Nguyễn Duy Tùng
Bùi Đức Thắng
Nguyễn Thanh Hà
Lê Thị Cẩm Thuý
Nguyễn Lê Hải
Nhóm tác giả trân trọng cảm ơn các cán bộ, giám sát viên, điều tra viên, kỹ thuật viên xét nghiệm của Uỷ
ban phòng phống AIDS, Trung Tâm phòng chống AIDS, Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh thành phố:
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ và An Giang đã hỗ trợ nhóm nghiên
cứu trong quá trình thu thập số liệu.
Nhóm tác giả trân trọng cảm ơn ông Richard Pierce về những đóng góp trong quá trình hiệu chỉnh bản
tiếng Anh của báo cáo.
Trân trọng cảm ơn Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ đã hợ trợ tài chính và kỹ thuật cho nghiên cứu
từ nguồn kinh phí của Kế hoạch viện trợ khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ cho chương trình phòng
chống AIDS (PEPFAR).
Nhà xuất bản Y học
VIETNAMESE AND AMERICANS
IN PARTNERSHIP TO FIGHT HIV/AIDS7JFjO74%55e
2 0 0 5 – 2 0 0 6
Kết quả Chương trình
giám sát kết hợp hành vi và
các chỉ số sinh học hiV/Sti
(iBBS) tại Việt nam
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
mụC LụC
Danh mụC tỪ ViẾt tẮt vi
LỜi giỚi thiỆu 1
tóm tẮt nghiên Cứu 2
tổng quan 5
mụC tiêu 6
Phương PhÁP 7
1. Địa điểm nghiên cứu và quần thể nghiên cứu 7
2. Cỡ mẫu 8
3. Phương pháp chọn mẫu 9
4. Các chỉ số nghiên cứu 11
5. Thu thập số liệu 11
6. Quy trình xét nghiệm 14
7. Quản lý và phân tích số liệu 15
8. Các vấn đề về đạo đức nghiên cứu 15
KẾt quẢ 17
1. Đặc điểm các nhóm quần thể nghiên cứu 17
2. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV và STI trong các nhóm quần thể nghiên cứu 19
2.1. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV 19
2.2. Tỷ lệ hiện nhiễm STI 21
3. Hành vi nguy cơ của các nhóm quần thể nghiên cứu 23
3.1. Người nghiện chích ma túy 23
3.2. Phụ nữ mại dâm 27
3.3. Nam quan hệ tình dục đồng giới 32
4. Tiếp cận với các chương trình can thiệp 38
hẠn ChẾ CỦa nghiên Cứu 43
KẾt LuẬn VÀ KhuYẾn nghỊ 45
Phụ LụC 48
Phụ lục I: Phân tích mô tả các chỉ số hành vi và sinh học nhóm người NCMT 48
Phụ lục II: Phân tích mô tả các chỉ số hành vi và sinh học nhóm phụ nữ MDĐP 55
Phụ lục III: Phân tích mô tả các chỉ số hành vi và sinh học nhóm phụ nữ MDNH 61
Phụ lục IV: Phân tích mô tả các chỉ số hành vi và sinh học nhóm MSM 67
tÀi LiỆu tham KhẢO 74
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
i
aiDS Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
BCS Bao cao su
BKt Bơm Kim Tiêm
BttX Bạn tình thường xuyên
BtKtX Bạn tình không thường xuyên
ĐtgShV Điều tra giám sát hành vi
Fhi Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế
hiV Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người
iBBS Giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI
LĐtBXh Lao động thương binh và xã hội
marP Quần thể có nguy cơ cao nhiễm HIV
mDĐP Mại dâm đường phố
mDn Mại dâm nam
mDnh Mại dâm tại tụ điểm nhà hàng, cơ sở dịch vụ, giải trí
mSm Nam QHTD đồng giới
nCmt Nghiện chích ma túy
PEPFar Kế hoạch viện trợ khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ cho phòng chống AIDS
PnmD Phụ nữ mại dâm
qhtD Quan hệ tình dục
rDS Chọn mẫu dây chuyền có kiểm soát
Sti Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục
tP hCm Thành phố Hồ Chí Minh
ungaSS Khoá họp đặc biệt về HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc
uS CDC Trung tâm phòng chống và kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ
uSaiD Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
VCt Tư vấn xét nghiệm tự nguyện
Viện VSDttư Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (NIHE)
Danh mụC tỪ ViẾt tẮt
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
Số người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện ở Việt Nam tăng nhanh trong những năm cuối của thập kỷ 90 cho
thấy khả năng lan truyền mạnh của dịch HIV, với các mức độ khác nhau trong nhiều nhóm quần thể nguy cơ,
nhất là ở các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, TP HCM, Cần Thơ, An Giang. Mặc dù dịch
HIV ở Việt Nam hiện vẫn đang trong giai đoạn “dịch tập trung”, tác động chủ yếu tới những quần thể có nguy
cơ cao như người tiêm chích ma tuý, phụ nữ mại dâm và khách hàng của họ, và những người có hành vi tình
dục không an toàn với nhóm quần thể có nguy cơ cao, tuy nhiên, đã có những bằng chứng cho thấy dịch
HIV đã lây truyền trong các nhóm quần thể nguy cơ thấp và có khả năng thay đổi nhanh với những diễn biến
phức tạp. Kết quả nghiên cứu “Ước tính và dự báo nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam 2005 – 2010” do Bộ Y tế và Tổ
chức Sức khoẻ gia đình Quốc tế, với sự hỗ trợ của USAID, tiến hành năm 2004 cho thấy ước tính có 263.470
người nhiễm HIV vào năm 2005 và dự báo đến năm 2010 sẽ có 311.500 người nhiễm ở Việt Nam.
Hệ thống giám sát HIV/AIDS quốc gia được thiết lập từ năm 1994 đã cung cấp kịp thời những thông tin cập
nhật phục vụ công tác hoạch định chính sách và xây dựng kế hoạch phòng chống HIV/AIDS. Ước tính và
dự báo HIV/AIDS 2005-2010 đã được sử dụng để phục vụ cho việc xây dựng và triển khai Chiến lược phòng
chống HIV/AIDS của Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Tuy nhiên, diễn biến dịch HIV hoàn toàn có
thể được cảnh báo sớm nhờ giám sát hành vi của mỗi cá nhân và sự thay đổi hành vi của họ là một trong
những yếu tố quyết định diễn biến dịch HIV. Do vậy, bên cạnh hệ thống giám sát huyết thanh học HIV,
từ năm 2000, Bộ Y tế đã bắt đầu thực hiện các điều tra giám sát hành vi liên quan tới lây nhiễm HIV/AIDS
nhằm bổ sung thông tin cho công tác phòng chống HIV/AIDS.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ Kế hoạch khẩn cấp phòng chống AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR),
năm 2005-2006 Bộ Y tế, Viện Vệ Sinh Dịch Tế Trung Ương đã tiến hành điều tra giám sát kết hợp hành vi và
các chỉ số sinh học tại 7 tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP HCM, Cần Thơ và An
Giang. Đây là một điều tra có hệ thống trên quy mô cộng đồng, tập trung vào các nhóm có nguy cơ cao lây
nhiễm HIV cao nhất (người nghiện chích ma tuý, phụ nữ mại dâm và nam quan hệ tình dục đồng giới) nhằm
cung cấp các chỉ số về hành vi, cũng như tỷ lệ hiện nhiễm HIV và các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình
dục. Những kết quả chính từ cuộc điều tra được tổng hợp trong báo cáo “Kết quả chương trình giám sát kết
hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam”.
Bộ Y tế trân trọng giới thiệu báo cáo này với các cơ quan tham gia phòng chống AIDS tại Việt Nam và các bạn
đồng nghiệp, tin tưởng rằng báo cáo này sẽ cung cấp được những thông tin có giá trị cho việc xây dựng các can
thiệp dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS hiệu quả và giúp theo dõi, đánh giá chương trình trong thời gian tới.
Nhân dịp xuất bản báo cáo, Bộ Y tế trân trọng cảm ơn sự hợp tác của cơ quan phòng chống AIDS các địa
phương trên địa bàn nghiên cứu, các cán bộ trực tiếp tham gia chương trình. Bộ Y tế đánh giá cao sự hỗ
trợ tài chính và kỹ thuật từ Cơ quan hợp tác phát triển Hoa Kỳ (USAID), Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa
Kỳ (CDC) và Tổ chức sức khoẻ gia đình quốc tế (FHI) trong việc thực hiện chương trình này.
LỜi giỚi thiỆu
Thứ trưởng Bộ Y tế
PGS. TS. Trịnh Quân Huấn
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
tóm tẮt nghiên Cứu
Chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học (IBBS) được triển khai tại các tỉnh, thành
phố Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP HCM, An Giang và Cần Thơ từ tháng 11 năm 2005
đến tháng 6 năm 2006. Mẫu nghiên cứu được thu thập tại cộng đồng nhằm ước lượng tỷ lệ hiện
nhiễm HIV, các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI), các hành vi nguy cơ và mức độ tiếp
cận các chương trình can thiệp trong các nhóm quần thể có nguy cơ cao nhiễm HIV (MARP). Các
nhóm quần thể này bao gồm phụ nữ mại dâm (PNMD), người nghiện chích ma tuý (NCMT) và nam
quan hệ tình dục đồng giới (MSM). Phương pháp chọn mẫu chùm và chọn mẫu dây chuyền có kiểm
soát (RDS) đã được sử dụng nhằm lựa chọn 3.547 PNMD, 2.032 NCMT tại 7 tỉnh và 790 MSM tại Hà
Nội và TP HCM. Bên cạnh thông tin về hành vi nguy cơ được thu thập thông qua phỏng vấn cá nhân,
mẫu bệnh phẩm máu, nước tiểu và mẫu ngoáy hậu môn cũng được thu thập nhằm xác định tỷ lệ
hiện nhiễm HIV và STI.
những phát hiện chính
Người nghiện chích ma tuý: HIV đang lây nhiễm nhanh trong những người NCMT trẻ và mới
tiêm chích
Những người NCMT là quần thể có tỷ lệ hiện nhiễm HIV cao nhất so với những quần thể khác, mặc dù
có sự khác nhau giữa các tỉnh, thành phố. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong những người NCMT cao nhất tại
Hải Phòng (66%) và Quảng Ninh (59%), thấp nhất tại An Giang (13%) và Đà Nẵng (2%). Kết quả nghiên
cứu cho thấy những dấu hiệu của sự lây truyền HIV nhanh chóng trong quần thể những người NCMT
trẻ tuổi và mới tiêm chích. Ví dụ, tại TP HCM, khoảng một nửa (48%) những người NCMT dưới 25 tuổi
và khoảng 1/4 người NCMT có thời gian tiêm chích dưới một năm. Tuy nhiên, HIV lan truyền rất nhanh
trong cả hai nhóm trên, với tỷ lệ hiện nhiễm tương ứng là 33% và 28%. Tỷ lệ hiện nhiễm trong nhóm
NCMT trẻ và mới tiêm chích tương đương với với tỷ lệ hiện nhiễm trong nhóm NCMT lớn tuổi và có
thời gian tiêm chích ma tuý dài hơn cũng được ghi nhận tại nhiều tỉnh, thành phố khác.
Dựa trên số liệu hành vi tự báo cáo, tỷ lệ dùng chung BKT dường như có xu hướng giảm xuống, tuy
nhiên vẫn ở mức độ cao. Từ 12% đến 33% người NCMT báo cáo có dùng chung BKT trong khoảng
thời gian 6 tháng trước cuộc điều tra. Tỷ lệ dùng chung BKT rất cao tại Đà Nẵng và các tỉnh phía nam
với 1/3 hoặc nhiều hơn người NCMT báo cáo có dùng chung BKT. Khi dùng chung BKT, người NCMT
thường dùng chung BKT với nhiều người, do đó họ có nguy cơ nhiễm HIV rất cao. Tại TP HCM, số liệu
cho thấy người NCMT trẻ và mới tiêm chích có hành vi không an toàn rất sớm, ngay sau khi họ bắt
đầu tiêm chích, và do đó tỷ lệ hiện nhiễm được dự báo sẽ tăng cao hơn mức 34%, là kết quả của điều
tra này.
Người NCMT cũng đồng thời có các hành vi tình dục không an toàn. Khoảng 1/2 người NCMT báo
cáo có QHTD trong vòng một năm trước cuộc điều tra. Tuỳ thuộc vào từng tỉnh, khoảng từ 20%- 40%
người NCMT báo cáo có QHTD với PNMD và từ 28% đến 60% có QHTD với BTTX trong 12 tháng trước
cuộc điều tra. Tỷ lệ sử dụng BCS thấp khi người NCMT có QHTD, đặc biệt trong nhóm những người đã
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
nhiễm HIV. Khoảng từ 1/5 đến 1/2 người NCMT đã nhiễm HIV tại Hà Nội, TP HCM và An Giang không
dùng BCS thường xuyên với vợ, bạn gái của họ.
Phụ nữ mại dâm: nhiễm HIV liên quan chặt chẽ với tiền sử tiêm chích ma tuý
Hơn 10% PNMD đã nhiễm HIV tại 5 trên 7 tỉnh, thành phố trong địa bàn nghiên cứu và tỷ lệ hiện
nhiễm trong nhóm MDĐP cao hơn tỷ lệ hiện nhiễm trong nhóm MDNH. Tỷ lệ hiện nhiễm cao nhất
được ghi nhận trong nhóm MDĐP tại Cần Thơ (29%) và Hà Nội (23%). Nhiễm HIV trong nhóm PNMD
có liên quan chặt chẽ tới hành vi tiêm chích ma tuý và những PNMD đã từng tiêm chích ma tuý dường
như có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn những PNMD không tiêm chích ma tuý từ 3,5 tới 31 lần. Ví dụ,
trong nhóm MDĐP tại Hải Phòng, chỉ khoảng 3% những PNMD không có tiền sử tiêm chích ma tuý
nhiễm HIV, trong khi tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm PNMD đã từng tiêm chích ma tuý là 55%.
Tỷ lệ hiện nhiễm STI thay đổi tuỳ thuộc vào từng tỉnh, thành phố. Tỷ lệ hiện nhiễm chlamydia cao
nhất trong nhóm MDĐP tại Hà Nội (17%), MDNH tại TP HCM (14%) và dưới 10% trong nhóm MDNH
tại Hà Nội, MDĐP tại TP HCM. Tỷ lệ hiện nhiễm lậu thấp hơn, trong khoảng từ 0,3% đến 2,7% tại Hà
Nội và TP HCM. Giang mai phổ biến hơn tại các tỉnh phía nam, đặc biệt tại TP HCM với 9% MDĐP và
7% MDNH hiện nhiễm.
Tỷ lệ sử dụng BCS tự báo cáo lần QHTD gần nhất với khách hàng rất cao và mặc dù kết quả này tương
tự như các nghiên cứu định lượng khác, song có thể bị ảnh hưởng bởi sai số báo cáo. Tuy nhiên, tỷ
lệ PNMD sử dụng BCS thường xuyên với khách trong vòng 1 tháng trước cuộc điều tra thấp hơn rất
nhiều, thay đổi từ 36% trong nhóm MDNH tại Quảng Ninh tới 89% trong nhóm MDĐP tại Cần Thơ.
Nhiều PNMD đã từng tiêm chích ma tuý, với tỷ lệ cao nhất trong nhóm MDĐP tại Hà Nội và Cần Thơ
(17%). Như đã đề cập ở phần trên, có mối quan hệ chặt chẽ giữa tỷ lệ hiện nhiễm HIV và hành vi tiêm
chích ma tuý ở mức độ từng cá nhân cũng như ở mức độ quần thể: tỉnh, thành phố có tỷ lệ PNMD
tiêm chích ma tuý cao hơn, thì tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm này tại tỉnh thành phố đó cũng cao
hơn. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hành vi dùng chung BKT rất phổ biến trong nhóm PNMD, với
tỷ lệ sử dụng chung BKT cao hơn nhóm nam NMCT tại nhiều tỉnh, thành phố.
Nam quan hệ tình dục đồng giới: tỷ lệ nhiễm STI cao và nhiều hình thái hành vi nguy cơ
Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm MSM tại TP HCM là 5% và tại Hà Nội là 9%, tuy nhiên sự khác biệt
trên không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ hiện nhiễm STI khá cao. Ví dụ, trung bình trong số 10 MSM tại
Hà Nội, có trên một người nhiễm lậu trực tràng (tỷ lệ là 12%), và 8% MSM tại Hà Nội nhiễm chlamydia
trực tràng. 22% MSM tại Hà Nội và 16% MSM tại TP HCM mắc ít nhất một nhiễm trùng lây truyền qua
đường tình dục.
MSM có nhiều bạn tình, với 44% MSM tại Hà Nội và 70% MSM tại TP HCM có 2 bạn tình hoặc nhiều
hơn trong vòng 1 tháng trước cuộc điều tra. Tình dục mại dâm cũng phổ biến trong nhóm quần thể
này với 22% MSM tại Hà Nội và 41% MSM tại TP HCM báo cáo có QHTD nhận tiền trong 1 tháng trước
cuộc điều tra. Tỷ lệ MSM có QHTD hậu môn, hành vi có nguy cơ nhiễm HIV cao nhất trong nhóm MSM,
rất cao: đa số những lần QHTD với bạn tình nam là QHTD hậu môn. Khi QHTD có nhận tiền, 82% MSM
tại Hà Nội và 85% MSM tại TP HCM có QHTD hậu môn.
Tỷ lệ sử dụng BCS khi QHTD hậu môn rất thấp, xấp xỉ 1/3 (29% tại Hà Nội và 37% tại TP HCM) báo cáo
sử dụng BCS thường xuyên với BTTX. 33% MSM tại Hà Nội và 51% MSM tại TP HCM báo cáo sử dụng
BCS thường xuyên khi QHTD có nhận tiền. Trung bình khoảng 4 trong số 10 MSM được hỏi cho biết
có QHTD với bạn tình nữ trong vòng 1 năm trước cuộc điều tra, và khoảng 15% MSM có QHTD với
PNMD.
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
Tỷ lệ MSM đã từng tiêm chích ma tuý tại Hà Nội cao hơn TP HCM (9% so với 4%). Tiêm chích ma tuý
cũng liên quan chặt chẽ với nhiễm HIV. Ví dụ, tại TP HCM, khoảng 1/3 (26%) những MSM đã từng
tiêm chích ma tuý đã nhiễm HIV, trong khi tỷ lệ hiện nhiễm trong nhóm MSM chưa từng tiêm chích
là 5%.
Độ bao phủ của các chương trình can thiệp: Nhiều người nhiễm HIV không biết tình trạng
nhiễm của họ
Kết quả nghiên cứu cho thấy độ bao phủ của các chương trình can thiệp đang được mở rộng, tuy
nhiên vẫn cần được tăng cường trong thời gian tới. Tỷ lệ đã từng xét nghiệm HIV và biết kết quả cao
nhất trong nhóm người NCMT tại Hải Phòng (40%), MDNH và người NCMT tại Hà Nội, với tỷ lệ tương
ứng là 39% và 34%. Tại TP HCM, với sự mở rộng của mạng lưới tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT)
trong những năm gần đây, trung bình có khoảng 1/5 số người thuộc tất cả các nhóm quần thể nguy
cơ cao cho biết họ đã từng xét nghiệm và biết kết quả.
Tuy nhiên, khoảng 3/4 những người đã nhiễm HIV trong nghiên cứu này không biết về tình trạng
nhiễm của họ. Ví dụ, 90% MSM đã nhiễm tại Hà Nội, 84% người NCMT đã nhiễm HIV tại Cần Thơ, 75%
MDĐP và 85% MDNH đã nhiễm HIV tại An Giang không biết là họ đã nhiễm HIV.
Tiếp cận với các chương trình can thiệp cộng đồng trong nhóm NCMT thay đổi từ 18% tại Hà Nội tới
59% tại TP HCM, trong khi tỷ lệ này trong nhóm PNMD thay đổi trong khoảng 34% tại Hà Nội tới 81%
tại Cần Thơ. 60% MSM tại TP HCM và 53% MSM tại Hà Nội đã từng nhận được thông tin giáo dục về
những hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV. Tỷ lệ PNMD nhận được BCS trong khoảng thời gian 6 tháng
trước cuộc điều tra tương đương tỷ lệ PNMD tiếp cận được với các chương trình can thiệp cộng đồng.
Tỷ lệ nhận được BKT sạch thấp hơn, với khoảng từ 56% tới 97% người NCMT tại các tỉnh trên địa bàn
nghiên cứu báo cáo đã từng nhận được BKT trong khoảng thời gian 6 tháng trước cuộc điều tra.
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
Nhiều bằng chứng dịch tễ học cho thấy các quần thể có nguy cơ cao nhất nhiễm HIV ở Việt Nam là
những người tiêm chích ma tuý, phụ nữ mại dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới và bạn tình của
của những người này. Số liệu giám sát trọng điểm cho thấy sự phát triển nhanh chóng của dịch HIV
tại TP HCM trong giai đoạn 1998 - 2001, khởi đầu trong nhóm nam NCMT trẻ tuổi, trong độ tuổi hoạt
động tình dục, sau đó lan truyền sang mạng luới tình dục mại dâm và sẽ lan truyền sang cộng đồng
dân cư bình thường nếu như không có những can thiệp hiệu quả.
Tại nhiều thời điểm và tại một số khu vực, hệ thống giám sát trọng điểm chủ yếu tiến hành trong các
trung tâm giáo dục dạy nghề, trung tâm 05-06 hoặc tại các bệnh viện, phòng khám. Do đó, nguồn
số liệu trên có thể không phản ánh diễn biến và chiều hướng nhiễm HIV, STI cũng như chiều hướng
hành vi nguy cơ trên thực tế, như kết quả từ mẫu nghiên cứu đại diện được thu thập trong các nhóm
quần thể nguy cơ cao tại cộng đồng.
Giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học, với những kết quả được trình bày trong báo cáo này,
được thiết kế nhằm bổ sung những nguồn thông tin thiếu hụt trên. Nghiên cứu này bao gồm số liệu
về tỷ lệ hiện nhiễm HIV, STI và hành vi nguy cơ trong nhóm NCMT, PNMD, MSM tại các tỉnh, thành phố
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của dịch HIV, ở khu vực phía Bắc là Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, ở
khu vực phía Nam là TP HCM, Cần Thơ, An Giang và thành phố Đà Nẵng ở khu vực miền Trung.
tổng quan
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học nhằm:
• Đo lường tỷ lệ hiện nhiễm HIV và các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục khác
(giang mai, lậu, chlamydia) trong các nhóm NCMT, PNMD và MSM .
• Đo lường các hành vi nguy cơ nhiễm HIV và thực hành hành vi dự phòng trong các nhóm
quần thể nghiên cứu.
• Ước lượng độ bao phủ và tiếp cận các can thiệp dự phòng
• Cung cấp các thông tin quan trọng giúp vận động và xây dựng chính sách.
mụC tiêu
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
1. Địa điểm nghiên cứu và quần thể nghiên cứu
1.1. Địa điểm nghiên cứu:
Bảy tỉnh và thành phố đã được chọn vào nghiên cứu gồm có Hà Nội , Hải Phòng, Quảng Ninh, TP HCM,
Cần Thơ, An Giang và Đà Nẵng. Sáu trong số 7 tỉnh/thành phố này (trừ Đà Nẵng), là địa bàn trọng điểm
trong Kế hoạch viện trợ khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ cho cho phòng chống AIDS (PEPFAR).
Giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học được tiến hành trên 3 nhóm quần thể có nguy cơ cao
nhất: Người NCMT (tại tất cả các tỉnh), PNMD bao gồm MDĐP và MDNH (tại tất cả các tỉnh), và MSM
(tại Hà Nội và TP HCM).
Phương PhÁP
Bảng : Khu ực tuyển chọn người tham gia nghiên cứu
Tỉnh/thành phố Quận huyện (khu vực tuyển chọn người tham gia nghiên cứu) Vị trí các trung tâm nghiên cứu
Hà nội Đống Đa, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân, Cầu Giấy Đống Đa
Hải Phòng Lê Chân, Hồng Bàng, Ngô Quyền, Hải An Lê Chân
Quảng Ninh Bãi Cháy, Hòn Gai, Cẩm Phả1 Bãi Cháy, Hòn Gai, Cẩm Phả
Đà Nẵng Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiều Hải Châu
TP. Hồ Chí Minh Quận 1, 3, 8 và Bình Thạnh Quận 1 và Quận 8
Cần Thơ Ninh Kiều, Cái Răng, Bình Thủy Ninh Kiều
An Giang Long Xuyên, Châu Đốc Long Xuyên, Châu Đốc
Tùy thuộc vào tình hình địa phương, tại mỗi tỉnh và thành phố, các quận huyện được chọn nghiên cứu
đều được coi là các “điểm nóng”, nơi có nhiều người có thể tuyển chọn tham gia nghiên cứu. Các “điểm
nóng” do nhóm nghiên cứu và các cán bộ địa phương đề xuất sau đợt đánh giá trước điều tra ở 7 tỉnh,
thành phố. Cụ thể về địa bàn nghiên cứu tại mỗi tỉnh, thành phố được trình bày trong bảng 1.
Đối với nhóm NCMT, phương pháp chọn mẫu dây chuyền có kiểm soát (RDS), theo như mô tả dưới
đây, được áp dụng tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP HCM và Cần Thơ. Do đó, địa điểm tuyển chọn người NCMT
tham gia nghiên cứu ở những thành phố này có thể không chỉ giới hạn tại các quận huyện liệt kê
trong bảng trên.
Nhóm MSM chỉ được nghiên cứu tại Hà Nội và TP HCM với phương pháp chọn mẫu RDS, do đó địa
bàn nghiên cứu của nhóm ngày tại hai thành phố cũng không giới hạn về địa lý.
1
Ở tỉnh Quảng Ninh: toàn bộ nhóm NCMT được chọn mẫu ở Cẩm Phả. Toàn bộ nhóm PNMD được chọn mẫu ở Hòn Gai và Bãi Cháy.
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
1.2. quần thể nghiên cứu và tiêu chuẩn tuyển chọn:
Nhóm nghiện chích ma túy (NCMT):
Người NCMT trong nghiên cứu này là nam giới, 18 tuổi trở lên, hiện đang nghiện chích ma túy (tiêu
chí này được xác định bằng hành vi tiêm chích ma túy trong vòng một tháng trước cuộc điều tra), tiếp
cận được tại các tụ điểm được chọn (ở Hải Phòng, Quảng Ninh và An Giang) vào thời điểm nghiên cứu,
và tự nguyện tham gia nghiên cứu.
Nhóm phụ nữ mại dâm (PNMD):
PNMD được tuyển chọn dựa trên các tiêu chuẩn sau: nữ giới ở độ tuổi 18 trở lên, có QHTD để kiếm tiền
ít nhất là một lần trong vòng 1 tháng trước cuộc điều tra, làm việc trên đường phố (MDĐP) hoặc các
tụ điểm như quán karaoke, các điểm massage (MDNH). Ở một vài tỉnh, mặc dù PNMD được xác định ở
các cơ sở dịch vụ giải trí, song dựa vào đặc điểm và hình thức làm việc của họ, những người này được
coi như những phụ nữ thuộc nhóm MDĐP. Ví dụ, tại Hải Phòng, một số PNMD hoạt động trong nhà
hàng vẫn được xem là PNMD đường phố do họ phải di chuyển từ đường phố vào trong các tụ điểm,
nhằm tránh các chiến dịch truy quét trên đường phố.
Nhóm nam QHTD đồng giới (MSM):
Nhóm MSM được chọn tham gia nghiên cứu dưạ trên các tiêu chuẩn: nam giới ở độ tuổi 15 trở lên, có
QHTD với nam giới ít nhất là một lần trong vòng 12 tháng qua, và tự nguyện tham gia nghiên cứu.
2. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu của từng nhóm quần thể nghiên cứu được tính toán để có thể phát hiện sự khác biệt 15%
giữa 2 vòng điều tra về các hành vi như thường xuyên dùng BCS và dùng chung BKT. Nếu thực sự có
thay đổi trong tỷ lệ PNMD thường xuyên dùng BCS ở mức 15%, với 300 PNMD được chọn cho mỗi
vòng, nghiên cứu có thể chứng minh được sự khác biệt trên có ý nghĩa thống kê. Cỡ mẫu thu thập
được trình bày trong bảng 2.
Bảng : Cỡ mẫu nghiên cứu được thu thập.
Tỉnh /thành phố NCMT MDĐP MDNH MSM
Hà Nội 296 275 224 397
Hải Phòng 301 279 274
Quảng Ninh 266 161 185
Đà Nẵng 274 175 313
TP. Hồ Chí Minh 296 298 302 393
Cần Thơ 299 162 300
An Giang 300 238 361
Tổng cộng 2.032 1.588 1.959 790
Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi
và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam, 2005 - 2006
3. Phương pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu sử dụng trong nghiên cứu IBBS được thể hiện trong bảng 3:
Bảng : Phương pháp chọn mẫu.
NCMT MDĐP MDNH MSM
Hà Nội * √ √ *
Hải Phòng √ √ √
Quảng Ninh x x √
Đà Nẵng * x x
TP HCM * x √ *
Cần Thơ * x x
An Giang x x x
Chọn mẫu dây chuyền có
kiểm soát (RDS)*
Chọn mẫu chùm√
Chọn toàn bộx
3.1. Chọn mẫu chùm hai giai đoạn:
Hai giai đoạn chọn mẫu bao gồm:
• Giai đoạn I: xây dựng khung mẫu và lựa chọn chùm.
• Giai đoạn II: lựa chọn các cá nhân tham gia nghiên cứu.
giai đoạn i: Xây dựng khung mẫu và lựa chọn chùm. Bản đồ các tụ điểm từng nhóm quần thể, nơi các cá
thể có thể tiếp cận được nhằm tuyển chọn họ tham gia nghiên cứu, được xây dựng ở từng tỉnh, thành phố.
Quá trình lập bản đồ kéo dài trong khoảng 2 tuần cho mỗi nhóm quần thể tại các khu vực được chọn (Xem
bảng 1: Khu vực tuyển chọn người tham gia nghiên cứu). Trước khi triển khai lập bản đồ các nhóm đối
tượng nghiên cứu, một khóa tập huấn 3 ngày được tổ chức tại mỗi tỉnh, thành phố. Khóa tập huấn cung
cấp các phương pháp giúp xác định được thành viên của các nhóm quần thể, cách tiếp cận họ, ước lượng
và ghi nhận kích cỡ quần thể tại mỗi tụ điểm. Kỹ năng phỏng vấn cũng được cung cấp trong khóa tập huấn
này. Cán bộ tham gia quá trình lập bản đồ do các cơ quan chức năng về phòng chống AIDS tuyến tỉnh lựa
chọn, bao gồm c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vietnamibbs2006vnhv-pdf-1.PDF