Ứng dụng kết hợp ủ xi lô bằng acid lactic đã loại được khoảng 78% protein và 21,1% khoáng
từ phế liệu tôm trong quá trình sản xuất chitin. Tiếp tục khử protein bằng enzyme alcalase và
khử khoáng bằng acid lactic cho phép thu được sản phẩm chitin tốt. Bên cạnh đó, qui trình mới
cho phép thu được dịch ủ có giá trị dinh dưỡng cao, có chứa đầy đủ các acid amin, acid béo
không thay thế, có thể sử dụng trong chế biến thức ăn gia súc. Hơn nữa, qui trình kết hợp ủ xi
lô góp phần làm giảm đáng kể nhiễm môi trường so với qui trình hóa học truyền thống.
7 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 20/05/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Kết hợp ủ xi lô bằng acid lactic nhằm nâng cao hiệu quả qui trình sản xuất chitin từ phế liệu tôm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị khoa học
28
KẾT HỢP Ủ XI LÔ BẰNG ACID LACTIC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUI
TRÌNH SẢN XUẤT CHITIN TỪ PHẾ LIỆU TÔM
Nguyễn Thị Ngọc Hoài*, Phạm Viết Nam
Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM
*Tác giả liên lạc: hoaintn@cntp.edu.vn
TÓM TẮT
Ứng dụng kết hợp ủ xi lô bằng acid lactic đã loại được khoảng 78% protein và 21,1% khoáng
từ phế liệu tôm trong quá trình sản xuất chitin. Tiếp tục khử protein bằng enzyme alcalase và
khử khoáng bằng acid lactic cho phép thu được sản phẩm chitin tốt. Bên cạnh đó, qui trình mới
cho phép thu được dịch ủ có giá trị dinh dưỡng cao, có chứa đầy đủ các acid amin, acid béo
không thay thế, có thể sử dụng trong chế biến thức ăn gia súc. Hơn nữa, qui trình kết hợp ủ xi
lô góp phần làm giảm đáng kể nhiễm môi trường so với qui trình hóa học truyền thống.
Từ khóa: Chitin, phế liệu tôm, ủ xi lô.
IMPROVING THE EFFICIENCY OF CHITIN PRODUCTION PROCESS FROM
SHRIMP WASTE BY USING LACTIC ACID ENSILAGE
Nguyen Thi Ngoc Hoai*, Pham Viet Nam
Ho Chi Minh city University of Food Industry
*Corresponding Author: hoaintn@cntp.edu.vn
ABSTRACT
Application of ensilage treatment can remove about 78% of protein and 22,1% of minerals from
shrimp waste in chitin production. Then continuing treatment the semi-processed waste with
enzyme alcalase treatment and lactic acid treatment can produce chitin with good quality. In
addition, this new way of treatment can produce the silaging liquid contains high nutritional
values and can be used for feed production. Furthermore, the new process combining ensilage
can reduce significantly pollution compared with traditional chemical process.
Keywords: Chitin, shrimp waste, silage.
MỞ ĐẦU
Theo Shahidi et al,1999, phế liệu tôm chiếm
35−40% so với lượng nguyên liệu ban đầu còn
trong phần phế liệu thì đầu tôm chiếm 71,4%,
vỏ chiếm 28,6% và có thể đặt ra vấn đề là
chúng sẽ hư hỏng và gây vấn nạn về môi
trường [1]. Hiện nay, lượng phế liệu này chủ
yếu được sử dụng để làm nguyên liệu cho quá
trình sản xuất chitin, không tận dụng phần có
lợi trong phế liệu tôm như protein và
astaxanthin. Các qui trình sản xuất chitin đang
sử dụng là các qui trình hóa học, sử dụng
nhiều hóa chất. Nước thải từ quá trình sản xuất
chitin bằng qui trình hóa học có dư lượng
NaOH, HCl và protein khá cao, nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường nước và không khí, tăng chi
phí cho việc xử lý nước thải [2]. Ứng dụng
acid hữu cơ trong việc khử khoáng của phế
liệu tôm trong sản xuất chitin, chitosan đã
được các nhà khoa học nghiên cứu rộng rãi.
Pratya Charoenvuttitham; John Shi; Gauri S.
Mittal (2006) sử dụng acid hữu cơ để khử
khoáng trong sản xuất chitin từ phế liệu tôm
sú, với chế độ khử khoáng bằng HCOOH
0,25M, acid citric 0,25M, nhiệt độ phòng, thời
gian 30 phút, tỷ lệ 1/28(w/v), hiệu suất khử
khoáng là 88,1±1,8% [3]. Ngoài ra Nesreen
Samir Mahmoud, Abdelkader Ghaly (2006)
cũng đã so sánh hiệu suất khử khoáng của acid
lactic và acid acetic ở nồng độ lần lượt là
75,6g/l, 75g/l, tỉ lệ vỏ tôm/acid là 1/20, nhiệt
độ 24oC, thời gian 2 giờ cũng thu được hiệu
suất khử khoáng lần lượt là 97,4% đối với acid
lactic và 86,36% đối với acid acetic, điều này
chứng tỏ acid lactic có khả năng khử khoáng
cao [4]. Theo Jung. W. J và cộng sự (2011) đã
so sánh hiệu quả khử khoáng và khử protein
trong quy trình sản xuất chitin của chủng
Lactobacillucs paracasei ssp. Tolerans
KCTC-3074) và acid lactic hữu cơ, kết quả
đối với mẫu xử lý bằng vi sinh vật thì hàm
lượng khoáng giảm khoảng 10%, hàm lượng
protein giảm từ 51,3% xuống còn 32,3%.
Trong khi đó, đối với mẫu sử dụng acid lactic
Kỷ yếu Hội nghị khoa học
29
hữu cơ thì hàm lượng khoáng trong nguyên
liệu giảm từ 49,1% xuống còn 16,4%, hàm
lượng protein giảm không đáng kể, chỉ khoảng
5% [5]. Năm 2009, Ngô Thanh Lĩnh và cộng
sự đã thực hiện nghiên cứu “Nghiên cứu kết
hợp phương pháp ủ xi lô trong công nghệ sản
xuất chitin-chitosan từ phế liệu đầu vỏ tôm”,
nghiên cứu cho thấy kết hợp ủ xi lô bằng acid
formic với tỷ lệ acid/phế liệu là 1% (v/w), rỉ
đường với tỷ lệ 10% (w/w), ủ trong thời gian
3 ngày ở nhiệt độ phòng sẽ khử được 83,1%
protein và 66,1% khoáng. Tiếp tục khử protein
còn lại bằng alcalase với tỷ lệ enzyme/phế liệu
là 0,2% (v/w) ở nhiệt độ 55oC, trong thời gian
8 giờ, pH=8,5, và khử khoáng còn lại bằng
acid lactic ở nồng độ 3%, thời gian 12 giờ ở
nhiệt độ phòng thì chitin thu được có hàm
lượng protein và khoáng dưới 1%. Tuy nhiên,
nghiên cứu nàyvẫn còn một số hạn chế là acid
formic là chất khử mạnh, bị oxy hóa nhanh
trong môi trường trung tính và kiềm, là acid
rất độc, hơi acid formic gây tổn thương mạnh
cho mắt, niêm mạc và khí quản, dung dịch
đậm đặc gây bỏng da rất lâu khỏi và rất đau.
Chính vì điều này mà khả năng áp dụng của
nghiên cứu trên bị hạn chế ở quy mô công
nghiệp [2]. Ưu điểm của việc sử dụng acid hữu
cơ là ít ảnh hưởng đến tính chất, chất lượng
chitosan, ít ảnh hưởng và tác động xấu đến
môi trường. Mặc khác, các sản phẩm trung
gian của quá trình nếu thu hồi sử dụng không
phải trung hòa và không ảnh hưởng đến sức
khỏe con người hay vật nuôi [6]. Qua đó, nhận
thấy ưu điểm khi áp dụng phương pháp ủ xilô
kết hợp bổ sung acid hữu cơ cho phế liệu tôm
là không những tách được đáng kể protein và
khoáng trong vỏ tôm hạn chế lượng hóa chất
sau này khi sản xuất chitin. Đồng thời còn có
thể tận thu các thành phần giá trị trong dịch ủ
để sản xuất thức ăn trong chăn nuôi, do nồng
độ hóa chất sử dụng trong khi ủ là không cao.
Do đó, việc nghiên cứu tối ưu hóa công đoạn
ủ xi lô với acid lactic trong quá trình chiết
chitin từ phế liệu tôm là cần thiết, tận dụng
được nguồn protein có chứa astaxanthin vào
một số ứng dụng hữu ích như làm thực phẩm
chức năng cho con người, hạn chế sử dụng hóa
chất vô cơ, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi
trường.
NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Nguyên vật liệu
Nguyên liệu
Đầu, vỏ tôm thẻ chân trắng (Penaeus
vannamei) được chọn là đối tượng nghiên cứu.
Mật rỉ đường có độ Brix 72−88%, tổng độ
đường 46−55%, có màu vàng đặc trưng của rỉ
mật, và các hóa chất sử dụng đều thuộc loại
tinh khiết phân tích (PA).
Thu mẫu và bảo quản mẫu
Đầu,vỏ tôm được lấy từ nguyên liệu tôm thẻ
chân trắng chế biến tại Công ty cổ phần thủy
sản số 5, lô A38/II đường số 2, KCN Vĩnh
Lộc, Q. Bình Tân, TPHCM. Nguyên liệu sau
khi lấy được vận chuyển ngay bằng thùng xốp
cách nhiệt có bảo quản nước đá, nhiệt độ <
5oC về phòng thí nghiệm. Nguyên liệu trước
khi sử dụng được rửa sạch, để ráo trong thời
gian 5 phút. Trong trường hợp chưa làm ngay
thì rửa sạch, được bao gói và mang đi bảo
quản đông ở điều kiện nhiệt độ −20oC tại
phòng thí nghiệm Trung tâm thí nghiệm thực
hành Trường Đại học Công nghiệp thực phẩm
thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
Bố trí thí nghiệm
Nguyên liệu đầu vỏ tôm sau khi loại tạp
chất, để ráo nước được trộn với acid lactic
(1-5%), rỉ đường (8-12%) cứu và ủ xi lô
trong thời gian 24-120 giờ. Sau quá trình ủ,
bã ủ được tiếp tục khử protein alcalase với
tỷ lệ enzyme/phế liệu: 0,5% (v/w), nhiệt độ
50oC, trong thời gian 6 giờ, pH=7,5. Khử
khoáng bằng acid lactic ở nồng độ 3%, thời
gian 4 giờ thu được chitin. Phần dịch ủ được
đánh giá các thành phần cơ bản.
Hình 1. Quy trình sản xuất chitin kết hợp
với phương pháp ủ xi lô bằng acid lactic
Kỷ yếu Hội nghị khoa học
30
Các phương pháp phân tích
Xác định hàm lượng protein bằng phương
pháp so màu: phương pháp Biuret theo
Gornall và cộng sự (1948) [7].
Xác định hàm lượng tro tổng số theo TCVN
5105:2009.
Xác định hàm lượng Astaxanthin theo Uma
Nath Ushakumari, Ravi Ramanujan (2012) [8]
Phân tích thành phần acid amin và acid béo
theo TCVN 9969:2013.
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu báo cáo là trung bình của 3 lần lặp
lại. Kết quả phân tích bằng phần mền Execl,
sử dụng ANOVA, giá trị p < 0,05 được xem
là có ý nghĩa về mặt thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
Phế liệu tôm có các thành phần chính là chitin,
protein, khoáng, lipid và chất màu được thể
hiện ở Bảng 1.
Bảng 1. Thành phần hóa học của phế liệu
tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei)
Chỉ tiêu Thành phần
Hàm lượng protein
(%) 47,6 ± 2,2
Hàm lượng tro tổng số
(%) 22,2 ± 0,5
Hàm lượng lipid (%) 3,5±0,5
Hàm lượng
astaxanthin (mg/kg) 132 ± 5,5
Nguyên liệu đầu, vỏ tôm sau khi mua ở Công
ty Thủy Sản số 5 được đem đi kiểm tra hàm
lượng protein, hàm lượng lipid, hàm lượng
chất màu tại Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí
Minh.
Kết quả cho thấy trong phế liệu tôm thẻ, thành
phần protein chiếm tỷ trọng lớn nhất đạt 47,6
%, tiếp đến là hàm lượng khoáng chiếm 22,2
% so với hàm lượng chất khô. Từ những phân
tích thành phần hóa học của tôm thẻ chân
trắng ở trên cho thấy, ngoài chitin trong phế
liệu còn có chứa một lượng lớn protein,
khoáng và hàm lượng astaxanthin nên quy
trình chế biến phế liệu tôm cần quan tâm thu
hồi các thành phần có giá trị này.
Ảnh hưởng của các yếu tố đến hiệu suất khử
khoáng và khử protein trong công đoạn ủ xi
lô
Ảnh hưởng của nồng độ acid lactic
Nồng độ acid là một thông số quan trọng
trong quá trình ủ xilô. Kết quả nghiên cứu về
ảnh hưởng của nồng độ acid lactic đối với quá
trình khử protein và khoáng được trình bày ở
Hình 2.
Hình 2. Hiệu suất khử protein và khử
khoáng theo nồng độ acid lactic
Bổ sung acid với nồng độ từ 1% đến 5% đều
cho thấy sự tăng lên rõ rệt hiệu suất khử
protein và khoáng so với mẫu không bổ
sung (đối chứng). Khi tăng tỷ lệ acid bổ
sung từ 1 lên 4% thì hiệu suất khử protein
tăng lên đáng kể (tương ứng là 40% và
78,5%) sau đó có xu hướng giảm không
đáng kể. Bên cạnh đó, hiệu suất khử khoáng
cũng tăng tỷ lệ thuận với nồng độ acid sử
dụng. Cụ thể, hiệu suất khử khoáng chỉ đạt
4% khi sử dụng tỷ lệ acid 1 %, nhưng khi tỷ
lệ này tăng lên 5% thì hiệu suất khử khoáng
đạt 22%. Các mẫu đối chứng và xử lý ở
nồng độ acid 1% thì khối ủ sau 3 ngày có
mùi hôi và dịch ủ có màu hơi đen. Kết quả
phân tích cũng cho thấy các mẫu đối chứng
và xử lý ở nồng độ acid 1% có hàm lượng
đạm NH3 cao hơn rất nhiều so với các mẫu
xử lý ở tỷ lệ acid từ 3% trở lên (Hình 2).
Hiện tượng khử khoáng xảy ra có thể là do
lượng acid bổ sung và lượng acid lactic do
hệ vi khuẩn lactic có sẵn trong nguyên liệu
sinh ra. Ngoài ra, quá trình khử khoáng cũng
làm mềm liên kết protein và chitin, tạo điều
kiện cho một số protease hoạt động làm thúc
đẩy quá trình thuỷ phân (Bower và Hietala,
2008). Ngoài ra, quá trình khử khoáng và
protein có thể do sự tham gia của các vi sinh
vật có mặt trong phế liệu tôm, đặc biệt là vi
khuẩn lactic. Kết quả này tương tự kết quả
của Rao và cộng sự (2000) khi nghiên cứu
quá trình ủ xilô có bổ sung acid acetic. Quá
trình tự lên men (tự thủy phân) phế liệu tôm
thường đạt hiệu quả cao do sự có mặt của
các vi sinh vật (Woods, 1998).
Ảnh hưởng của tỷ lệ rỉ đường/nguyên liệu
0
20
40
60
80
100
0 1 2 3 4 5Hi
ệu
su
ất
kh
ử p
ro
te
in
,
kh
oá
ng
(%
)
Nồng độ acid lactic (%)
Hiệu suất khử protein, khoáng
theo nồng độ acid lactic
Protein
Khoáng
Kỷ yếu Hội nghị khoa học
31
Trong quá trình ủ xi lô, bổ sung đường có
vai trò quan trọng cho hoạt động của vi sinh
vật trong quá trình ủ, tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình khử khoáng và khử protein.
Trong thí nghiệm này, rỉ đường được bổ
sung vào phế liệu tôm ở các tỷ lệ rỉ
đường/phế liệu là 8, 9, 10, 11, 12%. Mẫu
đối chứng không bổ sung rỉ đường.
Hình 3. Ảnh hưởng tỷ lệ rỉ đường/phế liệu
đến hiệu suất khử khoáng và khử protein
Sau 3 ngày ủ, khi không bổ sung rỉ đường
hiệu suất khử khoáng và khử protein đạt
tương ứng 25% và 2%, khối đầu tôm trở nên
vụn, có mùi hôi thối, màu sạm đen. Bên
cạnh đó, khi ép thu dịch thì dịch ủ cũng có
màu đen và thối. Ở tỷ lệ rỉ đường 8%, 9%
khả năng khử khoáng và khử protein có tăng
lên, nhưng dịch ủ có màu đen, mùi hơi thối.
Ở tỷ lệ rỉ đường 10%, 11% màu sắc, mùi có
cải thiện hơn. Khi xét đến hiệu suất khử
protein thì bổ sung rỉ đường/phế liệu ở các
mức 8-9% thì không khác biệt đáng kể,
trong khoảng 60-67%. Tuy nhiên, hiệu suất
khử khoáng có tăng lên ở tỷ lệ rỉ đường bổ
sung là 10%. Ở tỷ lệ rỉ đường 10% hiệu suất
khử khoáng có xu hướng tăng, đạt 24%.
Hiệu suất khử khoáng và protein tăng lên vì
rỉ đường là cơ chất rất quan trọng cho quá
trình lên men do vi sinh vật có mặt trong
khối ủ bao gồm vi khuẩn lactíc và các vi
khuẩn khác có khả năng sinh protease.
Trong rỉ đường chứa nhiều thành phần cần
thiết cho vi sinh vật sinh trưởng và phát triển
như sucrose (46-54%), đường khử (6-9%),
đạm (tổng N từ 0,45-2,88%), khoáng (3-
4%) và vitamin (Lương Đức Phẩm, 2004).
Việc bổ sung rỉ đường cho phép giảm nhanh
pH đến mức phù hợp để ức chế vi sinh vật
gây thối và tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình tự thủy phân bằng enzyme và vi sinh
vật có sẵn trong nguyên liệu tôm. Vi khuẩn
lactic phát triển mạnh sẽ sinh ra acid lactic
và chính acid lactic sẽ hòa tan chất khoáng,
tách chất khoáng ra khỏi nguyên liệu. Còn
các vi khuẩn sinh protease sẽ phát triển tốt
và sinh ra nhiều protease để thủy phân
protein khi nồng độ rỉđường được cung
cấp đầy đủ. Điều này sẽ làm cho bán chế
phẩm chitin thu được có chất lượng tốt hơn
(Fegbenro và Bello-Olusoji, 1997). Từ kết
quả trên, để đảm bảo hiệu quả của quá trình
ủ và tính kinh tế thì nên sử dụng tỷ lệ rỉ
đường/phế liệu thích hợp là 10% (w/w).
Ảnh hưởng của thời gian ủ
Kết quả ảnh hưởng của thời gian ủ đến hiệu
suất khử protein và khoáng được trình bày
ở Hình 4. Hiệu suất khử khoáng và protein
tăng dần theo thời gian ủ trong khoảng thời
gian từ 1-3 ngày. Sau 3 ngày ủ, hiệu suất
khử protein 85% và khử khoáng đạt 22%,
dịch ủ có màu hồng và có mùi thơm đặc
trưng của dịch ủ protein. Kéo dài thời gian
ủ đến 6 ngày thì khả năng khử khoáng và
khử protein chỉ tăng nhẹ. Do vậy, thời gian
ủ thích hợp là 3 ngày. Việc kéo dài thời gian
xử lý mà không tăng hiệu suất khử protein
và khoáng sau thời gian 3 ngày có thể do là
trong giai đoạn này protein và khoáng ở các
lớp ngoài liên kết với chitin không chặt chẽ
lắm đã được tách ra.
Hình 4. Ảnh hưởng thời gian ủ xi lô đến
hiệu suất khử khoáng và khử protein
Sau khi ủ xi lô, chitin thô được mang đi kiểm
tra xác định các thành phần hóa học
Bảng 2. Thành phần hóa học và trạng thái
của bán thành phẩm chitin sau khi ủ xi lô
Hàm lượng protein
(%) 10,289 ± 1,7
Hàm lượng tro tổng
số (%) 17,52 ± 0,5
Hàm lượng lipid (%) 1,05±0,5
Hàm lượng
astaxanthin (mg/kg) 55 ± 2,5
0
20
40
60
80
100
0 8 9 10 11 12
H
iệu
su
ất k
hử
p
ro
te
in
,
kh
oá
ng
(%
)
Tỷ lệ rỉ đường/ nguyên liệu (%)
Protein
Khoáng
0
20
40
60
80
100
1 2 3 4 5 6
Hi
ệu
su
ất
kh
ử p
ro
te
in
,
kh
oá
ng
(%
)
Thời gian ủ xi lô (ngày)
Protein
Khoáng
Kỷ yếu Hội nghị khoa học
32
Sau khi ủ xi lô, hàm lượng protein trên bán
thành phẩm (10,289%) thấp hơn so với kết quả
nghiên cứu của Ngô Thanh Lĩnh (11,7%),
chứng tỏ việc bổ sung acid lactic vào quá trình
ủ xi lô có khả năng khử protein tốt hơn so với
việc bổ sung acid formic. Mặc khác, hàm
lượng khoáng còn lại trong bán thành phẩm
chitin thô (17,52%) cao hơn so với kết quả
nghiên cứu của Ngô Thanh Lĩnh (15,4%), điều
này chứng tỏ khả năng khử khoáng của acid
formic tốt hơn acid lactic. Bên cạnh hiệu suất
khử protein và hiệu suất khử khoáng cần quan
tấm đến chất lượng của dịch ủ xi lô, dịch ủ xi
lô từ phế liệu tôm thu được có chứa đầy đủ
acid amin không thay thế và các acid béo
không no. Kết quả nghiên cứu này thu được
hiệu suất khử khoáng thấp so với nghiên cứu
của Pratya Charoenvuttitham ; John Shi ;
Gauri S. Mittal (2006) sử dụng chế độ khử
khoáng là HCOOH 0,25M, acid citric 0,25M,
nhiệt độ phòng, thời gian 30 phút, tỷ lệ
1/28(w/v), hiệu suất khử khoáng là
88,1±1,8%. Tuy nhiên, bên cạnh việc khử
khoáng, khả năng khử protein trong nghiên
cứu này là khá cao so với nghiên cứu của Jung.
W. J và cộng sự (2011) đã so sánh hiệu quả
khử khoáng và khử protein trong quy trình sản
xuất chitin của chủng Lactobacillucs
paracasei ssp. Tolerans KCTC-3074) và acid
lactic hữu cơ, kết quả đối với mẫu xử lý bằng
vi sinh vật thì hàm lượng khoáng giảm khoảng
10%, hiệu suất khử protein khoảng 40%.
Trong khi đó, đối với mẫu sử dụng acid lactic
hữu cơ thì hiệu suất khử khoáng đạt 66,6%,
nhưng hiệu suất khử protein chỉ khoảng 5%.
Kết quả nghiên cứu này thu được hiệu suất
khử protein và khử khoáng thấp so với nghiên
cứu của Ngô Thanh Lĩnh và cộng sự (2009)
kết hợp ủ xi lô bằng acid formic với tỷ lệ
acid/phế liệu là 1% (v/w), rỉ đường với tỷ lệ
10% (w/w), ủ trong thời gian 3 ngày ở nhiệt
độ phòng sẽ khử được 83,1% protein và
66,1% khoáng, hiệu suất khử protein và khử
khoáng khá caonhưng vẫn còn nhiều hạn chế
là acid formic là acid rất độc, hơi acid formic
gây tổn thương mạnh cho mắt, niêm mạc, khí
quản, dung dịch đậm đặc gây bỏng da rất lâu
khỏi và không thu hồi dịch protein và
astaxanthin.
Kết quả thành phần acid amin và acid béo
trong phế liệu tôm và trong dịch ủ xi lô ở
điều kiện thích hợp
Hình 5. Thành phần phần trăm của các acid
amin có trong phế liệu tôm và dịch ủ xi lô ở
điều kiện tối ưu
Từ Hình 5 cho thấy, trong dịch ủ xi lô từ phế
liệu tôm có chứa hầu hết các loại acid amin
thiết yếu như trong phế liệu tôm ban đầu.
Trong đó, acid glutamic chiếm tỷ lệ cao nhất
với 11,07% so với tổng các acid amin. Tiếp đó
là các acid amin khác cũng chiếm tỷ lệ khá cao
như: proline (6,75%), leucine (8,28%), acid
aspartic (8,19%), lysine (7,89%), glycine
(6,12%) alanine (7,11%), Như vậy, dịch ủ
xi lô từ phế liệu tôm có thành phần dinh dưỡng
khá cao và đầy đủ acid amin không thay thế.
Hình 6. Thành phần phần trăm của các acid
béo có trong phế liệu tôm và dịch ủ xi lô ở
điều kiện tối ưu
Kết quả trong Hình 6 cho thấy dịch ủ xi lô
chứa nhiều acid béo không no quan trọng là
acid alpha linoleic (ALA) 18:3n-3 (3,73%),
acid eicosapentaenoic (EPA) 20:5n-3
(2,75%), aciddocosahexaenoic (DHA) 22:6n-
3 (2,88%). Tổng các omega 3 là 7,22% và
tổng các omega 6 là 21,82% cho thấy tỷ lệ hai
chất này xấp xỉ là 1:3. Mặc dù hàm lượng acid
béo trong dịch ủ xi lô thấp hơn nhiều so với
hàm lượng các acid béo có trong phế liệu tôm,
nhưng sự có mặt của các acid béo không bão
hòa có vai trò quan trọng.
Nghiên cứu chỉ ra rằng việc kết hợp ủ xi lô với
acid lactic trong quy trình sản xuất chitin từ
0
5
10
15
20
25
Th
àn
h p
hầ
n %
Các acid amin
0
5
10
15
20
25
30
35
12
:0
0
16
:0
0
18
:0
0
18
:1
n‐9
18
:2
n‐6
18
:3
n‐3
20
:4
n‐6
20
:5
n‐3
22
:6
n‐3 n‐3 n‐6
n‐3
HU
FA
Th
àn
h p
hầ
n %
Các acid béo
Kỷ yếu Hội nghị khoa học
33
phế liệu tôm thẻ chân trắng (Penaeus
vannamei) đã khử được khoảng 78% protein
và 21% khoáng. Khi áp dụng công nghệ này
trong sản xuất sẽ làm giảm lượng hóa chất sử
dụng trong quy trình, giảm mức độ ô nhiễm
môi trường do hóa chất gây ra. Bán thành
phẩm chitin thô được mang đi thủy phân bằng
enzyme Alcalase ở nồng độ 0,5% trong 6h sau
đó ngâm trong dung dịch acid lactic 3% trong
6h sẽ thu được chitin có thành phần hóa học
như Bảng 3. Đồng thời, dịch ủ xi lô thu được
có chứa hầu hết các loại acid amin không thay
thế và các loại acid béo không no, đặc biệt là
có hàm lượng astaxanthin tương đối cao
35,2±1,5mg/l nên có thể ứng dụng vào các
mục đích như làm thực phẩm chức năng cho
con người.
Bảng 3. Chất lượng của chitin thu được bằng
phương pháp ủ xi lô kết hợp hóa học
Chỉ tiêu Chitin
Màu sắc Trắng, sáng
Trạng thái Dạng vảy, mềm, mịn
Protein
(% vật chất khô)
0,93 ± 0,06
Tro (% vật chất khô) 0,91 ± 0,1
Độ ẩm (%) 8,7 ± 0,15
Kết quả phân tích cho thấy, chitin sản xuất
bằng phương pháp ủ xi lô hết hợp hóa học có
hàm lượng protein và hàm lượng khoáng nhỏ
hơn 1% đã đáp ứng được yêu cầu chất lượng
của chitin công nghiệp.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Kết quả thí nghiệm tối ưu theo mô hình
Composit cho được kết quả các thông số nồng
độ acid lactic, tỷ lệ rỉ đường và thời gian ủ xi
lô thích hợp là 3%, 10% và 72 giờ.Sản phẩm
thu được là dịch ủ xi lô có thành phần dinh
dưỡng khá cao, chứa đầy đủ các acid amin
không thay thế, các acid béo không bão hòa.
Bán thành phẩm chitin thô thu được có hàm
lượng protein thấp, hiệu suất khử protein đạt
khoảng 78% và hiệu suất khử khoáng là 21%.
Việc kết hợp ủ xi lô với acid lactic trong qui
trình sản xuất chitin từ phế liệu tôm đã hạn chế
lượng hóa chất sử dụng, giảm mức độ ô nhiễm
môi trường, đồng thời giảm chi phí xử lý môi
trường. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu ứng
dụng dịch ủ xi lô làm thức ăn chăn nuôi cho
gia súc, gia cầm và nghiên cứu sâu hơn các
biến đổi của dịch ủ trong quá trình sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Fereidoon, S.,- Food applications of chitin and chitosans, Trends in Food Science and
Technology, 10, 1999,37-51.
Ngô Thanh Lĩnh - Nghiên cứu kết hợp phương pháp ủ xi lô trong công nghệ sản xuất chitin-
chitosan từ phế liệu đầu vỏ tôm, Luận văn thạc sĩ, Chuyên ngành Công nghệ sau thu
hoạch, Trường Đại học Nha Trang, 2009.
Pratya Charoenvuttitham, John Shi, Gauri S. Mittal - Chitin extraction from black tiger shrimp
(Penaeus monodon) waste using organic acids, Separation Science and Technology, 41,
(2006), 1135-1153.
Nesreen Samir Mahmoud, Abdelkader Ghaly - Unconventional Demineralization of Crustacean
waste for the production of chitin, American Society of Agricultural and Biological
Engineers, 3 (2006).
Jo G.H., Park R.D., Jung W.J., -Enzymatic Production of Chitin from Crustacean Shell Waste.
In: Chitin, Chitosan, Oligosaccharides and Their Derivatives, S.K. Kim (Ed.), CRC Press,
Taylor and Francis Group, Boca Raton, FL, USA, 2011,p. 37-45.
Luis A. Cira, Sergio Huerta, George M. Hall, Keiko Shirai - Pilot scale lactic acid fermentation
of shrimp waste for Chitin recovery, Process Biochemistry 37(2002) 1359-1366.
Gornall, A., G., Bardawill, C., T., David, M., - Determination of serum proteins by means of
the Biuret reaction, Department of Pathological Chemistry, University of Toronto,
Toronto Canada, (1948)
Uma Nath Ushakumari, Ravi Ramanujan, Astaxanthin from shrimp shell waste. International
Journal of Pharmaceutical Chemical Reseach, 16 (3) (2012) 2278-8700.
Kỷ yếu Hội nghị khoa học
34
Rao, M.S., Munoz, J., Stevens, W.F., Critical factors in chitin production by fermentation
of shrimp biowaste. Applied Microbiology Biotechnology, 54 (2000) 808-813.
Woods, B., Microbiology of fermented foods, Vol 1, Blackie, New York (1998).
Lương Đức Phẩm, Công Nghệ Vi Sinh Vật, Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp (2004).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_hop_u_xi_lo_bang_acid_lactic_nham_nang_cao_hieu_qua_qui.pdf