- Hiểu được các thành viên kênh ảnh hưởng và bị ảnh hưởng ra sao bởi môi trường kênh.
- Xác định các biến số môi trường ảnh hưởng đến kênh Marketing.
- Hiểu được tầm quan trọng của đạo đức trong việc xây dựng và duy trì các quan hệ kênh.
- Xác định và thảo luận về các vấn đề đạo đức cơ bản có thể nảy sinh trong kênh marketing.
- Đánh giá các chuẩn mực đạo đức được đưa ra nhằm giải quyết các mâu thuẫn đạo đức trong quan hệ kênh.
- Mô tả bốn nhân tố cần có cho một quan hệ kênh mang tính đạo đức.
17 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1788 | Lượt tải: 2
Nội dung tài liệu Kênh marketing - Chương 2: Môi trường bên ngoài của kênh marketing, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 2- Môi trường bên ngoài của kênh marketing
1
CHƯƠNG 2: MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI CỦA KÊNH
Mục tiêu của chương:
Hiểu được các thành viên kênh ảnh hưởng và bị ảnh hưởng ra sao bởi môi trường kênh.
Xác định các biến số môi trường ảnh hưởng đến kênh Marketing.
Hiểu được tầm quan trọng của đạo đức trong việc xây dựng và duy trì các quan hệ kênh.
Xác định và thảo luận về các vấn đề đạo đức cơ bản có thể nảy sinh trong kênh
marketing.
Đánh giá các chuẩn mực đạo đức được đưa ra nhằm giải quyết các mâu thuẫn đạo đức
trong quan hệ kênh.
Mô tả bốn nhân tố cần có cho một quan hệ kênh mang tính đạo đức .
I. KÊNH MARKETING VÀ MÔI TRƯỜNG
Kênh marketing hoạt động và phát triển trong điều kiện môi trường thay đổi. Sự thay đổi
này ảnh hưởng cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Vì vậy, nhà quản lý kênh phải nhạy cảm với sự
thay đổi của môi trường để ứng phó thành công với sự biến động đó. Để làm được điều này,
người quản lý kênh phải hiểu rõ các nhân tố môi trường có thể ảnh hưởng đến hệ thống kênh.
Môi trường bao gồm các yếu tố bên ngoài không thể kiểm soát được. Có rất nhiều biến cố
nhưng được phân thành 5 nhóm: kinh tế, cạnh tranh, văn hoá - xã hội, công nghệ, pháp lý.
Nhà sản xuất
Môi trường
1. Kinh tế thành viên kênh Trung gian
2. Văn hoá xã hội
3. Cạnh tranh Thị trường mục tiêu
4. Pháp lý
5. Công nghệ Trung gian hỗ trợ
Ảnh hưởng của các thành phần này rất phức tạp bởi phạm vi toàn cầu của môi trường bên
ngoài. Hơn thế nữa, mỗi thành phần môi trường này đều nhất thiết không có giới hạn như mô tả
trong CRM- Môi trường không bao giờ chỉ ảnh hưởng đến một thành viên riêng rẻ, nó cũng tác
động đến mối quan hệ giữa các thành viên trong kênh. Bởi các điều kiện môi trường vượt quá sự
kiểm soát của các thành viên kênh cá nhân, việc xem xét các nhân tố môi trường là một trong
những thuận lợi để phát triển một mối quan hệ.
1. Môi trường kinh tế
Dự đoán và phản ứng trước những tác động của nền kinh tế là một khía cạnh đặc biệt
quan trọng của việc điều hành kênh. Những điều kiện kinh tế thường xuyên được đo lường thông
qua một tập hợp các chỉ số. Những chỉ số này bao gồm từ chỉ số về GDP cho đến chỉ số về độ tin
cậy khách hàng. Những chỉ số khác nhau thường đưa đến những dấu hiệu hỗn hợp. Ở những thời
điểm khác nhau, bản thân các nhà kinh tế học cũng không thể tán đồng với ý nghĩa của những
thông số kinh tế.
Trọng tâm
quản trị
kênh
Không phải thành viên
kênh
Chương 2- Môi trường bên ngoài của kênh marketing
2
Các thông số kinh tế có khi cung cấp những đầu mối sai lệch cho các nhà thị trường.
Những hoài nghi về tính kịp thời và tính kiên trì của thang đo kinh tế cũng còn tồn tại. Hơn thế,
những thông số kinh tế có thể nói là sự tổng hợp hóa, cung cấp những chỉ dẫn tổng hợp về viễn
cảnh hay mức độ thực hiện tại một thời điểm nhất định. Ví dụ, nhiều thành viên kênh có thể phát
triển mặc dù có sự kiểm soát về chỉ số trung bình ngành Dow Jones. Không ai ngạc nhiên về điều
này bởi vì chỉ số Dow Jones chỉ là sự sưu tập tài liệu hàng ngày của giá cả cổ phiếu của 30 tập
đoàn thương mại công khai ở Mỹ.
Cũng thế, những điều kiện kinh tế có tác động dội lại đối với mỗi cấp độ của hệ thống
kênh. Ví dụ như, khi nhu cầu nội địa tăng, hàng hóa có khả năng được đẩy ra thông qua hệ thống
phân phối. Để đáp lại, các nhà sản xuất và phân phối gởi đến lượng hàng lớn hơn. Điều này báo
hiệu sự tăng trưởng kinh tế. Từ đó hàng gởi thông qua kênh sẽ được đẩy vào thị trường.
Thực tế này xảy ra thường xuyên trong ngành quần áo. Ở đó, hàng thời trang không thời
thượng được loại bỏ nhờ vào những nhà bán lẻ để giảm lượng tồn kho quá nhiều. Chúng ta hãy
xem vào những năm 1990, việc giới thiệu những kiểu áo sơ mi ngắn và áo đầm tập trung vào đối
tượng là những phụ nữ trung niên, chuyên nghiệp. Kết quả là những khách hàng mục tiêu đã
không đém xỉa gì đến chúng, vậy là nhà sản xuất phải cố gắng giảm thiểu ứ đọng tồn kho bằng
cách giảm giá. Ở góc độ khác thì sự dịch chuyển hàng hóa không phụ thuộc vào sự tiêu thụ của
khách hàng. Vì lí do này, chỉ số lòng trung thành của khách hàng có thể dẫn đến những thông số
sai lệch về khả năng thu lợi nhuận của kênh trong tương lai.
Đối mặt với những điều không chắc chắn này, các thành viên trong kênh có thể rà soát
môi trường kinh tế của họ như thế nào? Về mặt lý thuyết, hàng trăm thông số có thể xem xét.
Bản chất của những con số về môi trường kinh tế được hướng đến thông qua những điều kiện
nằm trong số bốn nhân tố kinh tế chính sau:
Cơ sở hạ tầng kinh tế.
Sức mua của khách hàng.
Sự ổn định của tiền tệ
Các chính sách thương mại quốc gia.
Kiến trúc hạ tầng kinh tế gồm tập hợp hệ thống hỗ trợ giao tiếp, giáo dục, tài chính và
phân phối trong bất kì lĩnh vực thị trường nào.
Ví dụ, nước Nga trước đây đã thu hút được các nhà marketing toàn cầu bởi quy mô dân số
và niềm khao khát của người dân tiêu thụ hàng hóa phương Tây. Tuy nhiên, những vấn đề xung
quanh việc phát triển và duy trì các quan hệ kênh ở vùng đất lạc hậu về cơ sở hạ tầng này cần
phải xem xét. Khó mà tin được rằng ba khu phố trồng cà chua trong khối liên hiệp Xô Viết đã
không bao giờ đến được thị trường bán lẻ. Và cơ sở hạ tầng nghèo nàn ở đây đã góp phần vào sự
rẹo rã này. Đơn giản là những quả cà chua đã không được vận chuyển đến đúng lúc cho người
bán lẻ.
Chỉ số sức mua của khách hàng cung cấp sự hiểu biết sâu sắc về mức độ thực hiện các
mục tiêu trong tương lai. Khi khách hàng không mua hàng nghĩa là không có sự ảnh hưởng đến
phân phối hàng hóa thông qua kênh marketing. Việc chi tiêu thấp hơn của khách hàng có thể đem
lại những tác động tiêu cực đến toàn bộ mức độ thực hiện của một kênh. Khi sức mua của khách
hàng ít hơn, những nhà bán lẻ sẽ có được doanh số bán ít hơn và đòi hỏi về nguồn hàng ít hơn.
Và những kết quả về chỉ số GDP thấp hơn ở những cơ hội việc làm ít đi thì sức mua người dân
cũng giảm sút. Kết quả là, nhu cầu của khách hàng cũng giảm.
Sự ổn định tiền tệ thường có ảnh hưởng then chốt đến mức thực hiện kênh. Những thành
viên ở các hãng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Mỹ thường nhận ra rằng họ phải bảo vệ chống lại
việc rớt giá đồng ngoại tệ. Chẳng hạn, tính quá bất ổn của nền kinh tế Nga đã khiến nhiều nhà
kinh doanh phải làm mới lại những bản hợp đồng cứ mỗi ba tháng một lần hay là giới hạn chu kì
sống của những hợp đồng dịch vụ với các nhà cung cấp của Nga.
Chương 2- Môi trường bên ngoài của kênh marketing
3
Chính sách thương mại của một nước có thể chứng minh là một chỉ số kinh tế đầy ý
nghĩa. Như gần đây, các chính sách thương mại của Mỹ với Việt nam nhận được nhiều sự quan
tâm. Đa số những nhà xuất khẩu của Mỹ, cảm nhận được một cơ hội thị trường, đã cùng nhau
chúc tụng khi những phê chuẩn mang tính phi thương mại bị dỡ bỏ. Vậy mà nhiều người Mỹ đã
không tin tưởng vào khả năng thành công khi buôn bán với Việt Nam. Cũng như vậy, trong
những năm cuối của nạn phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, nhiều thành viên của Mỹ bị bắt buộc
phải hủy bỏ những mối quan hệ trao đổi với miền Nam Châu Phi trong khi nhiều trong số những
mối quan hệ này đã rất có lợi.
Bốn nhân tố kinh tế chung này đã bao quát mọi khía cạnh. Những nhân tố kinh tế vĩ mô
còn lại như mức lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp hay lãi suất cũng có thể mang đến những hậu quả
quan trọng đối với cấu trúc và mức độ thực hiện của kênh. Mục tiêu khác như là quy mô thâm
hụt ngân sách và những biến động trên thị trường cũng có thể giúp các thành viên trong kênh
quản trị sự bất ổn. Cũng vậy, 4 nhân tố này là điển hình cho những mối quan hệ trao đổi có thể
trở thành phức tạp khi những điều kiện kinh tế không ổn định.
a. Suy thoái
Theo định nghĩa chính thức của các chuyên gia kinh tế thì trong bất kỳ giai đoạn nào chỉ số
GDP biểu hiện sự đình trệ hoặc tăng trưởng rất chậm thì có liên quan đến suy giảm hay suy thoái
kinh tế.
Trong giai đoạn suy thoái, chi tiêu của người tiêu dùng (đặc biệt đối với hàng hoá lâu bền
như ô tô, nhà cửa) giảm mạnh, đôi lúc giảm đột ngột. Các thành viên trong kênh có thể thấy ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế thông qua sự sụt giảm doanh số bán, lợi nhuận, đặc biệt với các công
ty có lượng tồn kho cao sẽ ảnh hưởng nặng nề, thậm chí công ty nằm trong nguy cơ hiện hữu của
sự phá sản.
Qua đó có thể thấy, nhà quản lý kênh phải điều chỉnh hoạt động hỗ trợ của mình nhằm
tránh đi nguy cơ làm mất đi sự gắn bó trong quan hệ với các thành viên khác, ngay lúc xảy ra khó
khăn như vậy thì nên lập ra các chương trình hỗ trợ cho người bán buôn, bán lẻ chia sẻ rủi ro với
họ đồng thời thúc đẩy, củng cố tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau trong dài hạn.
b. Lạm phát
Các nhà kinh tế cho rằng nếu nền kinh tế phát triển quá nhanh thì tỷ lệ lạm phát sẽ tăng
thậm chí lên đến 2 con số. Một nước khuyến khích sự phát triển kinh tế bằng việc tung tiền vào
thị trường quá mức hoặc cả thế giới rơi vào khủng hoảng khi cạn nguồn năng lượng dẫn đến giá
cả thay đổi như hình xoắn ốc. Do đó các nhà quản lý kênh phải thích nghi dần sự ảnh hưởng của
lạm phát đến chiến lược kênh của mình.
Phản ứng của các thành viên trong kênh khi lạm phát tăng được đo lường thông qua phản
ứng của người tiêu dùng. Không may là phản ứng của người tiêu dùng trong giai đoạn này là
không thể đoán trước được. Một số trường hợp khi lạm phát tăng thì mức chi tiêu của khách hàng
vẫn cao vì tất cả người tiêu dùng bị chi phối bởi yếu tố tâm lý "mua nhanh trước khi giá bắt đầu
tăng". Nhưng cũng có lúc người tiêu dùng "giữ tiền lại" khi đối mặt với lạm phát sắp xảy ra.
Ngoài sự thay đổi trên, còn xuất hiện sự thay đổi trong quá trình mua của người tiêu dùng.
Viện nghiên cứu marketing thực phẩm (FMI) tiến hành nghiên cứu trên thị trường thực phẩm
trong suốt thời kỳ lạm phát quá trình mua của khách hàng cho thấy họ:
- Đi siêu thị nhưng không mang theo nhiều tiền
- Trả lại một số mặt hàng trước khi chuẩn bị thanh toán
- Mua với lượng vừa đủ
- Mua ít thịt lại
- Mua những nhãn hiệu có chất lượng thấp hơn
- Mua những hàng hạ giá đặc biệt
Chương 2- Môi trường bên ngoài của kênh marketing
4
Nắm được sự thay đổi trong hành vi mua, nhà quản lý kênh sẽ tìm ra biện pháp thích hợp
tránh sự tác động tiêu cực đến các thành viên trong kênh và chiến lược kênh.
Khi lạm phát tăng, chỉ tiêu của khách hàng giảm nên các siêu thị đặc biệt lưu ý đến những
sản phẩm mà họ có thể bán được. Vì lãi suất cao nên người bán lẽ cố gắng giảm mức tồn kho đến
mức tối thiểu có thể bằng cách tranh thủ sự hỗ trợ của nhà sản xuất muốn xúc tiến bán để giảm
giá đặc biệt. Do đó, các nhà quản lý kênh ở các hãng sản xuất phải điều chỉnh chiến lược kênh
hiệu quả để thoát khỏi thời kỳ khó khăn này.
c. Các vấn đề kinh tế khác
- Thâm hụt ngân sách, nợ nước ngoài chồng chất: các quốc gia đang trong tình trạng như
vậy thì nhu cầu vốn rất lớn dẫn đến lãi suất tăng, lạm phát tăng. Một khi cán cân ngân sách thâm
hụt, nền kinh tế khó khăn sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp thu nhập giảm dễ dẫn đến suy thoái
kinh tế.
- Sự tăng trưởng chậm thu nhập của các hộ gia đình: nếu xảy ra xu hướng như vậy thì tất cả
các thành viên trong kênh phải nỗ lực hơn để đạt mức tăng doanh số ngay cả khi họ đã cố gắng
giảm giá chi phí.
- Tỷ lệ lãi suất cao: Đây cũng là vấn đề ngay cả khi nền kinh tế không nằm trong giai đoạn
suy thoái hay lạm phát cao. Lãi suất ở đây là lãi suất thực, được tính bằng cách lãi suất danh
nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát
Lãi suất danh nghĩa Tỷ lệ lạm phát Lãi suất thực
15% 5% 10%
15% 10% 5%
Cùng một lãi suất danh nghĩa thì lãi suất thực có khi tỷ lệ lạm phát thấp, lãi suất cao có thể
ảnh hưởng đến kênh marketing. Khi người tiêu dùng nhận ra ảnh hưởng của nó sẽ giảm chi tiêu
đột ngột. Thêm vào đó, các thanh viên thường huy động vốn từ các trung gian tài chính nên với
lãi suất cao sẽ làm tăng chi phí và tăng rủi ro tài chính. Lãi suất cao làm giảm nhu cầu chi tiêu và
tăng chi phí hoạt động.
- Tỷ giá đồng nội tệ: tỷ giá đồng nội tệ tăng thì giá hàng bán nội địa sẽ mắc hơn giá hàng
hoá ngoại nhập, điều này làm giảm tính cạnh tranh của hàng nội địa. Các nhà bán buôn, bán lẻ
nhận thấy bán hàng ngoại nhập với chi phí thấp hơn là lợi hơn cả đe doạ cho nhà sản xuất nội
địa.
- Tỷ lệ lạm phát thấp: Các nhà bán buôn, bán lẻ thường đối diện với sức ép tăng giá, đặc
biệt là các hợp đồng lao động được đàm phán những năm trước với tỷ lệ lạm phát cao hơn. Chi
phí tăng dẫn đến giá tăng trong khi lạm phát thấp gây khó khăn cho nhà sản xuất bởi lẻ các thành
viên trong kênh rất nhạy cảm với giá.
Các nhân tố kinh tế quyết định đến hiệu quả và hành vi hoạt động của các thành viên trên
kênh. Vì vậy, các nhà quản lý kênh phải nắm vững những ảnh hưởng của các biến số kinh tế lên
các thành viên trong hệ thống phân phối.
2. Môi trường văn hoá xã hội
Những cấu trúc kênh thay đổi thường xuyên là do bởi những thay đổi trong môi trường
văn hóa xã hội. Bất cứ khi nào các giá trị khách hàng, những thái độ, hay những phong cách sống
thay đổi thì khách hàng sẽ bộc lộ nhu cầu và những động cơ thúc đẩy mua cũng thay đổi theo. Ví
dụ, những khách hàng đã luôn có nhu cầu về hàng hóa từ điểm A đến điểm B. Nhưng nhiều năm
qua cho thấy, cách khách hàng đã lựa chọn để thỏa mãn sự chuyên chở này cần phải có sự thay
đổi mạnh mẽ.
Khi những thay đổi về văn hóa xã hội như vậy thay đổi, các thành viên trong kênh phải
phản ứng bằng cách thích nghi với nhu cầu của khách hàng- thỏa mãn chiến lược marketing-mix.
Chương 2- Môi trường bên ngoài của kênh marketing
5
Tiến trình này làm thay đổi tất cả những sản phẩm và dịch vụ đáp ứng yêu cầu sử dụng của khách
hàng. Quản trị kênh phải nhạy cảm với môi trường văn hoá xã hội khi xu hướng mở rộng kênh ra
nước ngoài đang tăng. Muốn thành công khi mở rộng kênh phải hiểu được môi trường văn hoá -
xã hội và xu hướng thay đổi của nó trong tương lai. Ở đây, chúng ta xem xét một số biến chuyển
chính trong môi trường văn hoá - xã hội:
- Sự lão hoá của dân số: Dân số Mỹ từ 227 triệu tăng lên 250 triệu từ năm 1980 - 1990 (tỷ
lệ tăng 10% trong 10 năm), số người từ 65 tuổi trở lên chiếm 23% trong khi từ 10 - 24 tuổi chỉ
chiếm 12%. Trong thập niên 80 do trạng thái thừa vật chất xuất hiện một lối sống, một phong
trào gọi là hiện tượng "juppies" với bề ngoài là những người trẻ tuổi, thành đạt có cuộc sống tiện
nghi theo chủ nghĩa hưởng thụ. Nhưng qua thập kỷ 90 phong trào này lắng xuống, khách hàng
thủ cựu chiếm đa số. Sự thay đổi đột ngột như vậy đã diễn ra trên đất Mỹ. Do thấy được sự thay
đổi này, hệ thống Wal - Mart, Home Dopot và Circuit City đã không ngừng phát triển với chiến
lược giá thấp, định hướng sản phẩm theo giá trị và đặc điểm tâm lý khách hàng thay đổi: Tính
kinh tế trội hẳn hơn tính thể hiện.
- Sự di chuyển vùng: từ những thập niên 70 đã diễn ra quá trình đô thị hoá nhanh chóng,
các vùng kinh tế trọng điểm thu hút lao động từ các nơi đến. Vì vậy, nhà quản lý kênh phải chú ý
đến sự thay đổi này để điều chỉnh chiến lược kênh phù hợp.
- Hệ thống giáo dục: ở Mỹ, độ tuổi từ 25-34 tuổi, tỷ lệ tốt nghiệp trung học là 90%, một tỷ
lệ rất cao. Trình độ dân trí càng tăng thì đòi hỏi, yêu cầu của khách hàng về sản phẩm cũng tăng,
kể cả nơi bán và người bán sản phẩm nữa. Cho nên, các thành viên kênh sẽ phải nỗ lực hơn nữa
thì mới đạt được hiệu quả phân phối.
- Sự thay đổi cơ cấu dân tộc: Một nước gồm nhiều dân tộc, mỗi dân tộc có những bản sắc
riêng, nhu cầu tiêu dùng và thói quen tiêu dùng riêng. Nhiều nhà sản xuất nhỏ tập trung chuyên
môn hoá vào thị trường các dân tộc riêng biệt. Họ có thể bao quát thị trường, tăng hiệu quả chiến
lược marketing.
- Sự thay đổi vai trò của phụ nữ: Số phụ nữ trong lực lượng lao động ngày càng tăng. Phụ
nữ có thể kiếm được việc làm ở bên ngoài, có thể tự quyết định quy mô gia đình, có địa vị hơn
trong xã hội, phong trào tự do của phụ nữ ảnh hưởng rất nhiều đến phân phối. Vai trò mua sắm
độc tôn của phụ nữ giảm dần và có xu hướng tăng ở nam giới. Nghiên cứu cho thấy một cặp vợ
chồng đều có việc làm thì trung bình đi mua sắm ở siêu thị của người vợ là 6,9 lần /1 tháng và ở
nam giới là 3,7 lần/1 tháng. Quản trị kênh phải xem lại chiến lược kênh để chiếm được phân
đoạn thị trường mà phụ nữ có định hướng nghề nghiệp chiếm đa số vì người bán lẻ và phương
pháp bán lẻ phù hợp với phân đoạn thị trường này.
- Sự thay đổi trong cấu trúc gia đình: những gia đình nhiều thế hệ ngày càng giảm dần. Một
số xu hướng chính của gia đình.
+ Quy mô gia đình nhỏ hơn, mỗi cặp vợ chồng trung bình có 2 con
+ Giai đoạn nuôi dưỡng con cái ngắn đi 3 năm, con cái sớm rời cha mẹ độc lập trong cuộc
sống hơn.
+ 10% dân số Mỹ sống độc thân có nhà riêng, số này chiếm 24% tổng số hộ gia đình.
+ Số người không quan hệ huyết thống sống chung trong một căn hộ ngày càng tăng (1987:
40%)
Sự thay đổi này ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của khách hàng và tác động mạnh đến
chiến lược quản lý và phát triển kênh. Số hộ độc thân tăng không có con cái thì xu hướng tập
trung vào các sản phẩm đắt tiền như máy tính, du lịch, đĩa compact... Các nhà quản lý kênh phải
nhận thức được xu hướng này để phát huy và giành ưu thế cạnh tranh trên thị trường.
3. Môi trường cạnh tranh
Trong những năm gần đây, cạnh tranh trở thành vấn đề toàn cầu. Các hãng nội địa không
chỉ tập trung vào đối thủ cạnh tranh trong nước mà phải đề phòng cả những đối thủ tiềm ẩn từ
bên ngoài.
Chương 2- Môi trường bên ngoài của kênh marketing
6
Các dạng cạnh tranh
SX SX SX SX SX SX SX
sỉ sỉ sỉ sỉ sỉ sỉ sỉ
lẻ lẻ lẻ lẻ lẻ lẻ lẻ
Các hãng cùng cung cấp cùng loại hình kinh doanh cạnh tranh với nhau; các hãng cùng cấp
khác loại hình kinh doanh cạnh tranh với nhau; các thành viên trong kênh cạnh tranh với nhau;
cạnh tranh giữa hai hệ thống kênh hoàn chỉnh
- Cạnh tranh theo chiều ngang: Kênh cùng cấp của 2 công ty cùng loại hình kinh doanh
cạnh tranh với nhau. Ví dụ nhà sản xuất ô tô cung cấp hàng cho nhà bán buôn cạnh tranh với nhà
bán buôn khác, cửa hàng bán lẻ này cạnh tranh với cửa hàng bán lẻ khác.
Ví dụ, chúng ta hãy xem xét ví dụ cách đây không lâu tình huống Sears dẫn đầu về bán lẻ ở
Mỹ. Tuy nhiên, ngày nay Wal-Mart đang dần ở vị trí chỉ huy và nó đang trên đà phát triển mở
rộng. Những cửa hàng như Sears, Kmart và Wal- Mart thường cạnh tranh bằng việc giảm giá,
ngay cả khi có ngoại lệ đối với một số sản phẩm của Sears. Trong khi các nhà bán lẻ có những
cách khác nhau để thu hút khách hàng, thì sản phẩm của họ phải được phân bổ rộng khắp theo
chiều rộng và sâu. Đối với một số nhóm sản phẩm nhất định, các nhà bán lẻ thường hạ giá như
T.J Maxx, Ross Dress for Less và Barling ton Coat Factory cũng cạnh tranh với Sears, Kmart, và
Wal- Mart.
Như vậy, sự thống trị của Wal- Mart đã bắt buộc các thành viên kênh khác đáp ứng với
những thay đổi trong cấu trúc bán lẻ. Sự thành công và sức mạnh của hãng đã thôi thúc nhiều
đối tác thay đổi quy trình sản xuất và phân phối sản phẩm cho họ.
Môi trường cạnh tranh ngang
- Cạnh tranh cùng loại: Cạnh tranh giữa hai công ty khác loại hình kinh doanh nhưng
cùng cấp. Ví dụ: cửa hàng (trung tâm) giảm giá cạnh tranh với trung tâm thương mại, cửa hàng
chuyên dụng hay nhà bán sỉ cạnh tranh với nhà môi giới.
Một ví dụ; công ty phần mềm General Magio, Inc là một tập đoàn kinh doanh bao gồm 10
nhà máy: Motorola, Fujitsu Ltd, Sony computer, Philips Electronic và Toshiba Corp... Trong khi
các nhà máy cạnh tranh trực tiếp với nhau, thì mạng lưới General Magic cho phép những nhà
Wal-Mart Kmart Sears
Người tiêu
Chương 2- Môi trường bên ngoài của kênh marketing
7
khổng lồ công nghiệp này phát triển và chia sẻ công nghệ thông qua một số lượng ứng dụng
video và viễn thông.
- Cạnh tranh theo chiều dọc: Cạnh tranh giữa các thành viên trong cùng một kênh. Ví dụ:
Người bán lẻ cạnh tranh với nhà bán buôn, nhà sản xuất đôi khi cạnh tranh như vậy dẫn đến xung
đột trong kênh. Cạnh tranh dọc xuất hiện bất kì lúc nào nhà sản xuất và nhà bán lại tranh giành
lợi nhuận. Nhà bán lẻ có thể cạnh tranh với nhà bán sỉ. Các nhà sản xuất thậm chí có thể tranh
đua với nhà bán lẻ. Ví dụ như trường hợp của lực lượng bán hàng trực tiếp IBM đòi hỏi tài khoản
của các nhà bán lẻ máy tính độc lập, những người cũng đang truyền đi đường dây của IBM. Kiểu
cạnh tranh dọc này, được gọi là phân phối kép, có thể phá vỡ sự hài hòa trong hệ thống kênh.
Đương nhiên là mối bất đồng có thể nảy sinh giữa nhà sản xuất và người bán buôn của nó- những
người đang cạnh tranh với nhau.
Ví dụ, cách đây vài năm, công ty máy tính Compaq quyết định mở rộng kênh phân phối
thông qua việc sử dụng thư đặt hàng và các nhà máy giảm giá mạnh. Quyết định này làm cho
các nhà bán lẻ máy tính độc lập tức giận vì họ nhận thấy khó mà cạnh tranh về giá cả được. Các
nhà bán lẻ độc lập cũng trải qua những khó khăn để duy trì những phát minh ra các sản phẩm
được ưa chuộng. Một nhà buôn cho rằng Compaq cố tình làm chệch hướng những phát minh cho
kênh bán hàng mới, làm mất uy tín của các đại lý truyền thống. Matt Hirzsimmons, một nhà buôn
máy tính New York đã phàn nàn: “Chúng ta không chỉ mất một đơn đặt hàng, chúng ta đã mất
một mối quan hệ lâu dài với một khách hàng.”
Môi trường cạnh tranh dọc
- Cạnh tranh giữa hai hệ thống kênh hoàn chỉnh: hệ thống kênh này cạnh tranh với hệ
thống kênh kia.
Ví dụ, hãy xem sự vinh quang nhỏ bé về PepsiCo- một nhà cạnh tranh nước ngọt lớn thứ
nhì trên thế giới. Mặc dù nó chỉ là một tập hợp con của thị trường nước ngọt toàn cầu, từ chỗ
chiếm chỉ đến 1% doanh số toàn ngành nhưng PepsiCo đã có một sự cạnh tranh thị phần rất dữ
dội bằng cách vươn ra phạm vi lớn để chiếm lĩnh thị phần. Sau nhiều năm cố gắng dành được
quyền phân phối ở những hãng máy bay lớn, PepsiCo cuối cùng đã trở thành nhà cung cấp nước
ngọt lớn thứ hai ở các hãng hàng không Tây Bắc. Rõ ràng các hãng hàng không có truyền thống
thưởng cho nhà cung cấp Coca-cola những hợp đồng độc quyền, một hãng đã thống trị khá lâu
trong việc phân phối, vì thế nỗ lực của Pepsico là rất đáng kể.
Cạnh tranh là một thành phần không thể kiểm soát được của môi trường kênh. Sự cạnh
tranh có thể xảy ra tại bất kì cấp độ nào của kênh marketing. Sự thay đổi nhanh chóng của thị
trường có thể khiến cho thành tố cạnh tranh của môi trường khó mà quản lý. Do vậy, người quản
lý kênh cần xác định loại bán buôn, bán sỉ nào có thể phân phối sản phẩm, dịch vụ hiệu quả nhất.
Cấu trúc cạnh tranh giữa người bán buôn và bán lẻ đôi khi thay đổi rất nhanh, việc duy trì cố
định loại phân phối bán cụ thể từng mô hình trở nên không thích hợp nữa. Chẳng hạn, lúc trước
Compaq
Wal-Mart
Người tiêu dùng
Chương 2- Môi trường bên ngoài của kênh marketing
8
quần áo chỉ xuất hiện ở những cửa hàng chuyên doanh thì nay có thể tìm thấy ở rất nhiều nơi như
siêu thị, cửa hàng bách hoá tổng hợp. Người quản lý kênh phải nắm rõ các dạng cạnh tranh ảnh
hưởng đến kênh như thế nào để tập trung tìm ra điều gì đang diễn ra trong môi trường cạnh tranh.
Khả năng nhận thức và phân biệt các kiểu cạnh tranh cũng như việc đánh giá tình hình cạnh tranh
là điều cốt yếu đối với phát triển chiến lược mục tiêu.
4. Môi trường công nghệ
Đây là yếu tố môi trường thay đổi nhanh chóng và liên tục, đặc biệt ở các nước công
nghiệp hoá. Vì vậy, nhà quản lý kênh phải phân loại những yếu tố phát triển công nghệ và phân
tích xem nó tác động đến các thành viên kênh như thế nào. Đây là nhiệm vụ khó khăn và không
thể hoạch định chính xác trước được.
Môi trường công nghệ- đặc biệt là những sản phẩm dựa trên sự hiểu biết- đều ảnh hưởng
đến các mối quan hệ trong kênh bởi những tiến bộ công nghệ làm thay đổi những chuẩn mực về
tiện ích trao đổi. Ví dụ, công nghệ đã làm cho việc phân phối trở nên nhanh chóng và kịp thời
như phân phối xuyên suốt 24h/24h. Việc sử dụng máy tính và các tiến bộ công nghệ giao tiếp
đang kích thích những tiêu chuẩn về cải tiến hệ thống phân phối. Ví dụ như một đơn vị sản xuất
của Tập đoàn Tandy mang tên GSC đã thiết lập một hệ thống đặt lệnh trực tuyến qua mạng, hệ
thống này sẽ gắn kết trực tiếp giữa khách hàng với bộ phận nhà máy. Những nghiệp vụ trực
tuyến qua mail của GSC và đường dây điện thoại có 800 số của hãng có thể giúp khách hàng
tiếp cận sản phẩm mới một cách nhanh chóng. Hệ thống đặt lệnh theo hiệu quả chi phí này làm
cho GSC có thể có mức giá bán thấp hơn khoảng 30%. Quả thật, những thay đổi về môi trường
công nghệ đã giúp GSC tiếp cận khách hàng nhanh hơn.
Công nghệ đang tạo ra thế giới của những kênh phân phối nhỏ gọn hơn và nhanh hơn.
Quả thật, việc cân bằng về quyền lực trong nhiều hệ thống kênh được thực hiện xuyên suốt từ
nhà sản xuất đến nhà bán lẻ. Ngày nay những nhà bán lẻ có thể nhanh chóng thu được những
thông tin chính xác về những mặt hàng không được khách hàng chấp nhận rộng rãi. Thập niên
vừa qua, họ sử dụng những thông tin này để tạo vị thế của họ với nhà sản xuất và các nhà bán sỉ.
Những cải cách về công
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHUONG_2.pdf