Tự chủ đại học Việt Nam từ thí điểm vào năm 2014 cho đến nay đã có nhiều
tiến bộ, với kinh nghiệm thí điểm cơ chế hoạt động mới của các trường đã được đúc
kết trong Luật 34 hiệu lực từ tháng 7/2019 cùng với Nghị định 99 vừa mới ban hành.
Mức độ tự chủ đang dần nâng cao theo các nước tiên tiến, trong đó có tự chủ tài chính
mà đặc biệt là việc tự chủ học phí. Học phí là một nội dung quan trọng tại Việt Nam vì
hơn 80% thu của hệ thống đại học chủ yếu từ nguồn này. Nếu bỏ qua các trường đại
học có yếu tố quốc tế hoặc tư thục, thì hệ thống đại học công lập Việt Nam có hai
nhóm trường khác nhau về cách thu học phí, một nhóm tự chủ theo từng đề án thí
điểm riêng biệt dưới Nghị quyết 77 của Chính phủ, và nhóm đa số còn lại tuân thủ quy
định học phí của Nghị định 86 năm 2015 của Chính phủ.
11 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 17/05/2022 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à giám sát
một quy trình lớn như vậy. Cuối cùng, phải có chính sách, cơ chế để vừa giám sát việc
tự chủ học phí thông qua quy trình này nhưng vừa tránh kiểm soát học phí để thực
hiện tinh thần tự chủ đại học. Hiện nay ta chỉ mới quy định về việc đạt kiểm định làm
điều kiện mở ngành, chứ chưa tính đến việc đánh giá đầu ra và gắn học phí với đánh
giá đầu ra.
4. Cạnh tranh và công bằng xã hội
Gắn học phí với chất lượng đào tạo là điều cần thiết, nhưng đây chỉ mới là
nguyên tắc chủ đạo để tự chủ học phí. Theo chúng tôi, cần có thêm hai nguyên tắc
khác. Nguyên tắc bổ sung đầu tiên là học phí phải có tính cạnh tranh giữa các trường.
Ở đây chúng tôi hiểu cạnh tranh không chỉ đơn giản là giảm học phí, mà cạnh tranh
phải nằm ở tương quan chất lượng đào tạo với học phí, để người học nhận được giá trị
nhiều nhất cho số tiền họ bỏ ra. Nói một cách đơn giản, học phí cạnh tranh không phải
là học phí rẻ, mà là học phí rẻ so với chất lượng. Tính cạnh tranh là cần thiết vì ba lí
do. Thứ nhất, cạnh tranh giúp nhà trường năng động, chú ý đến nhu cầu của thị trường
hơn, tránh tình trạng đào tạo trong tháp ngà. Thứ hai, chúng tôi dự đoán các trường sẽ
có xu hướng đa ngành trong bối cảnh tự chủ, và vì thế sự trùng lắp lĩnh vực đào tạo là
khó tránh khỏi (hiện nay cũng đã tồn tại). Chủ động cạnh tranh, cộng với áp lực thị
trường, sẽ là sự sàng lọc để các trường vừa không đầu tư dàn trải, vừa phát hiện ra thế
mạnh của mình và từ đó phát huy. Hiện nay cơ cấu hệ thống đại học của ta đã có sẵn
chuyên môn hóa, nhưng sự chuyên môn hóa này là di sản lịch sử hàng thập kỉ của quy
hoạch từ trên xuống, nó ít cho các trường có cơ hội khám phá, cọ sát và phát huy năng
lực tiềm tàng. Cuối cùng, sự năng động thích nghi với thị trường, cùng với chuyên
môn hóa, sẽ là cơ sở để các trường tuyển sinh bền vững, chưa kể đến những gói đặt
hàng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, cạnh tranh chắc chắn sẽ có mặt
tối. Các hình thức cạnh tranh không lành mạnh như quảng cáo dối, dùng tài nguyên
vào các giá trị không thực chất (có thể nghĩ đến việc mua bài gần đây), hoặc dùng
truyền thông tấn công đối thủ, đều sẽ có hậu quả lớn cho xã hội và làm mất uy tín Nhà
nước. Chính vì vậy, ta cần có chính sách, cơ chế giám sát cạnh tranh. Một nhược điểm
khác của cạnh tranh đó là, nếu ta chú ý vào vấn đề phân bổ ngành, thì có những ngành
có chi phí đào tạo quá cao và sẽ cần học phí của các ngành khác bù qua, nếu không
549
học phí của chúng sẽ quá khả năng thị trường (đây là bài toán đau đầu của những
trường đơn ngành chi phí cao như Y Dược TP.HCM5). Chúng tôi dự đoán các trường
sẽ có khuynh hướng không mở hoặc đóng những ngành chi phí cao để giữ tính cạnh
tranh của các ngành còn lại và của tổng thể trường. Tuy nhiên, những ngành chi phí
cao lại thường là các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật hoặc y khoa, nên không thế
thiếu cho sự phát triển đất nước. Vì lẽ nãy, cạnh tranh có thể dẫn tới một nền giáo dục
đại học khiếm khuyết, và chúng tôi tin rằng cần có sự can thiệp của Nhà nước để tránh
viễn cảnh trên.
Nguyên tắc bổ sung còn lại của tự chủ học phí đó là đảm bảo công bằng xã hội.
Việc học phí tương xứng với chất lượng và có tính cạnh tranh không có nghĩa rằng
mọi sinh viên có năng lực đều trang trải được, đặc biệt nếu họ thuộc các nhóm yếu thế
trong xã hội. Chính vì vậy, học phí nên được tính toán để tạo ra các khoản hỗ trợ các
nhóm yếu thế, có thể là học bổng hoặc trợ giá. Dù vậy, công bằng xã hội là một vấn đề
vĩ mô, nên chúng tôi cho rằng cần có sự vào cuộc Nhà nước. Về việc này, ta có thể lấy
ví dụ từ nước Úc10. Tại Úc, Nhà nước trợ giá cho tất cả mọi sinh viên, nhưng mức trợ
giá sẽ dao động tùy ngành, với các ngành có chi phí đào tạo cao và/hoặc triển vọng
lương thấp sẽ được trợ giá cao. Mức trợ giá cho các ngành được thể hiện trong bảng
dưới.
Bảng 2. Mức trợ giá học phí Úc
Ngành/Nhóm ngành
Mức trả
Chính phủ
Học phí Tổng
Phần trăm
của học phí
Luật, Kế toán, Quản trị, Kinh
tế, Thương mại
$1 990 $10 085 $12 075 83.5%
Nhân văn $5 530 $6 044 $11 574 52.2%
Toán, Xác suất thống kê, Xây
dựng, Máy tính, Y tế công
$9 782 $8 613 $18 395 46.8%
Khoa học hành vi, Khoa học
xã hội
$9 782 $6 044 $15 826 38.2%
Giáo dục $10 178 $6 044 $16 222 37.3%
Tâm lí y khoa, Ngoại ngữ,
Nghệ thuật biểu diễn
$12 031 $6 044 $18 075 33.4%
Allied health $12 031 $8 613 $20 644 41.7%
Điều dưỡng $13 432 $6 044 $19 476 31.0%
Kĩ thuật, Khoa học, Quan trắc
đo đạc
$17 104 $8 613 $25 717 33.5%
Nha, Y khoa, Thú y $21 707 $10 085 $31 792 31.7%
Nông lâm $21 707 $8 613 $30 320 28.4%
5 Ngành Răng-Hàm-Mặt của Y Dược TP.HCM tăng học phí từ 13 lên 70 triệu/năm, một số ngành khác tăng lên
50-70 triệu. Học phí mới chắn chắn sẽ gây khó khăn cho cả nhà trường, sinh viên và có thể dẫn đến thiếu bác
sĩ cho xã hội. Rõ ràng trong trường hợp này cần có sự hỗ trợ Nhà nước.
550
Ngoài trợ giá, người học Úc có thể vay để không phải trả học phí, và họ chỉ cần
trả lại nếu thu nhập sau tốt nghiệp vượt quá một mức nào đó. Chúng tôi nhận thấy rằng
Việt Nam có thể học hỏi nước Úc về tinh thần, nhưng về cách làm ta nên có điều
chỉnh. Thay vì trợ giá và cho vay với tất cả các ngành và sinh viên, ta nên ưu tiên cho
(1) những ngành chi phí cao (trợ giá học phí cũng là một cách để chúng không bị bỏ
quên trong sự cạnh trong giữa các trường), và (2) sinh viên từ những nhóm yếu thế.
Mức trợ giá và cho vay cũng nên tính toán phù hợp điều kiện kinh tế Việt Nam. Ý
tưởng trợ giá và cho vay thoạt nhìn đơn giản nhưng đi vào thực tiễn Việt Nam sẽ nảy
sinh nhiều vấn đề. Thứ nhất, để tính mức trợ giá và cho vay phù hợp, chúng ta cần xây
dựng cơ sở dữ liệu về chi phí đào tạo và thu nhập ra trường của các ngành chi phí cao,
cũng như cơ sở dữ liệu về các nhóm yếu thế và mức sống của họ. Thứ hai, ta phải có
cách theo dõi tiền vay và đảm bảo tiền vay được trả nhiều nhất có thể mà không ảnh
hưởng đến an sinh xã hội của người đi vay, và điều này đòi hỏi phát triển hệ thống tín
dụng cả nước. Riêng vấn đề tín dụng, báo cáo khảo sát học phí của UBVHGD cũng đã
chỉ ra sự thiếu liên kết giữa chính sách học phí và các chính sách tính dụng, hỗ trợ tài
chính cho đại học. Thứ ba, ta cần một quy trình đánh giá độ hiệu quả của trợ giá và
vay để tránh lãng phí. Cả ba vấn đề vừa nêu hiện nay đều là những mảng trống tại Việt
Nam, trừ việc chúng ta có điều tra dân số và thu nhập bình quân cho đồng bào các dân
tộc thiểu số (có thể xem là một nhóm yếu thế).
5. Giải pháp ngắn hạn và dài hạn
Trên cơ sở các vấn đề đã tham luận, chúng tôi đề xuất một số giải pháp ngắn
hạn và dài hạn để thực hiện tự chủ học phí với đại học Việt Nam. Về ngắn hạn:
• Như đã nói ở mục 2, hiện nay ta chưa có quy trình đánh giá và thông tin
chất lượng đào tạo (đặc biệt là đánh giá kết quả) cho thị trường, cộng với việc ta mới
áp dụng tự chủ học phí, nên sự tùy tiện trong học phí là khó tránh khỏi. Mặc dù ta chấp
nhận sự tùy tiện trong một thời gian, nhưng các cơ quan quản lí nên theo dõi sát sao và
yêu cầu giải trình nếu có dấu hiệu tiêu cực, và xử lí nếu cần thiết theo pháp luật hiện
hành.
• Lập các nhóm chuyên môn gồm các chuyên gia công nghệ thông tin, giáo
dục, kinh tế, đại diện của UBVHGD, đại diện Bộ Giáo dục và đào tạo và các bộ ngành
liên quan, để nghiên cứu và xây dựng các nền tảng để phát triển tự chủ học phí, gồm
(1) quy trình khảo sát mức độ hài lòng của sinh viên cho toàn hệ thống đại học, (2) cơ
sở dữ liệu về các trường đại học, (3) cơ sở dữ liệu về sinh viên, gồm thông tin khi đang
theo học và thông tin việc làm sau khi tốt nghiệp (có thể chia mức thời gian 6 tháng, 2
năm), (4) cơ sở dữ liệu về các ngành chi phí cao, (5) cơ sở dữ liệu về các nhóm yếu thế
và mức sống của họ.
• Phối hợp giữa Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Tài chính để phát triển hệ
thống tín dụng cho sinh viên ở cấp độ quốc gia, và đây là điều nên làm và phải làm để
đảm bảo tính công bằng trong tiếp cận giáo dục. Tín dụng cho người học phải là thực
chất và chỉ nên hoàn lại sau khi người học ra trường có việc làm, ở một mức không
ảnh hưởng an sinh của họ.
Về dài hạn:
• Có chính sách, luật và quy trình đánh giá chất lượng kết quả đào tạo. Điều
này sẽ đưa đánh giá kết quả thành một việc phải quan tâm của cả hệ thống và thúc đẩy
các trường cải thiện năng lực của mình. Việc thử nghiệm và về sau là tổ chức đánh giá
551
nên giao cho một cơ quan độc lập, để đánh giá chính xác hơn và ngăn chặn tiêu cực,
tham nhũng.
• Có chính sách và luật về cạnh tranh giữa các trường đại học. Các chính sách
và luật này chỉ nên tập trung vào giám sát, ngăn chặn và xử lí hành vi cạnh tranh
không lành mạnh (sẽ cần định nghĩa các hành vi này). Không nên kiểm soát việc cạnh
tranh nói chung.
• Có chính sách và cơ chế trợ giá những ngành chi phí cao như các ngành kĩ
thuật, sức khỏe
• Có chính sách và cơ chế cho vay với những nhóm yếu thế, đi kèm là hệ
thống tín dụng để kiểm soát tiền vay
6. Kết luận: Các vấn đề còn bỏ ngõ
Trong tham luận này, chúng tôi đã bàn về các nguyên tắc quan trọng với tự chủ
học phí, bao gồm chất lượng đào tạo, tính cạnh tranh và công bằng xã hội. Một số ví
dụ cụ thể, các vấn đề phát sinh và đề xuất cũng đã được nêu lên. Liên quan đến cả ba
nguyên tắc, ta có thể thấy rằng vai trò của Nhà nước vẫn thực sự quan trọng, cho dù tự
chủ đại học, trong đó có tự chủ học phí, là một xu hướng cần thiết. Sự vào cuộc của
Nhà nước sẽ đảm bảo chất lượng trong một thị trường giáo dục chưa thực sự hoàn hảo
và đồng thời đảm bảo nguyên tắc công bằng trong tiếp cận cho những đối tượng yếu
thế.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ một tham luận ngắn vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngõ
và cần bàn bạc thêm. Chúng tôi ví dụ hai vấn đề đó là, thứ nhất, do ta gắn liền học phí
với hoạt động đào tạo (như đã nói ở mục 1 và 2), thì nguồn kinh phí cho hai chức năng
còn lại của trường đại học – nghiên cứu và phục vụ cộng đồng, sẽ đến từ đâu. Nếu yêu
cầu người học phải chi trả cho hai mảng hoạt động này, đặc biệt là nghiên cứu, thì học
phí sẽ rất cao và chưa kể là bất công cho họ; có thể dễ hình dung rằng không phải dự
án nghiên cứu nào cũng liên quan đến nhu cầu người học, cũng như sẽ khó lí giải tại
sao người học phải đóng học phí để rồi vào thực hiện các hoạt động phục vụ cộng
đồng. Có lẽ một sự đầu tư mang tính đột phá và có yếu tố cạnh tranh năng lực của Nhà
nước sẽ là lời giải. Thứ hai, ta cũng nên trợ giá học phí (hoặc một dạng hỗ trợ gói)
theo vùng miền để phát triển đại học vùng, và qua đó phát triển kinh tế vùng, nhưng
việc này sẽ được làm thế nào để vừa công bằng giữa các vùng miền vừa có hiệu quả
tổng thể cho kinh tế quốc gia? Báo cáo của UBVHGD cũng có đề cập việc rà soát,
phân nhóm đại học theo vùng miền, dựa trên đó xây dựng chính sách hỗ trợ Nhà nước.
Chúng tôi tin rằng sẽ cần thêm thời gian để nghiên cứu và tranh luận những vấn đề
như thế này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. UK Parliament (2018). Tuition fee statistics. Available online at
https://commonslibrary.parliament.uk/research-briefings/sn00917/
2. UK Parliament (2020). Higher education funding in England. Available online at
https://commonslibrary.parliament.uk/research-briefings/cbp-7973/
3. Park, S (1996). Research, Teaching, and Service. Journal of Higher Education,
67(1), pp. 46-84.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoc_phi_chat_luong_canh_tranh_va_cong_bang_xa_hoi.pdf