Dụng cụ, di vật cổ bằng đá từ các thời đại đồ đá cũ được tìm thấy ở núi Đọ (Thanh Hoá), đồ đá giữa của văn hoá Hoà Bình rồi đến đồ đá mới thuộc văn hoá Bắc Sơn cách đây khoảng 100 nghìn năm chứng tỏ người Việt cổ đã biết khai thác chế biến nguyên liệu khoáng (Trần Quốc Vượng, 1978).
Vào thời Hùng Vương cách đây hàng nghìn năm, người Lạc Việt đã chuyển dần sang thời đại đồ đồng thể hiện qua các di chỉ ở Phùng Nguyên (Vĩnh Phú), Quy Đạt (Quảng Bình), Hạ Long (Quảng Ninh) (Đào Duy Anh, 1964).
24 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương
Hoạt động
điều tra
địa chất,
thăm dò và
khai thác
dầu khí
2
13
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
Dụng cụ, di vật cổ bằng đá từ các thời
đại đồ đá cũ được tìm thấy ở núi Đọ (Thanh
Hoá), đồ đá giữa của văn hoá Hoà Bình rồi
đến đồ đá mới thuộc văn hoá Bắc Sơn cách
đây khoảng 100 nghìn năm… chứng tỏ người
Việt cổ đã biết khai thác chế biến nguyên
liệu khoáng (Trần Quốc Vượng, 1978).
Vào thời Hùng Vương cách đây hàng
nghìn năm, người Lạc Việt đã chuyển dần
sang thời đại đồ đồng thể hiện qua các di
chỉ ở Phùng Nguyên (Vĩnh Phú), Quy Đạt
(Quảng Bình), Hạ Long (Quảng Ninh)…
(Đào Duy Anh, 1964).
2. Thời kỳ phong kiến
Thời đại kim khí thời Hùng Vương
phát triển qua các giai đoạn đồ đồng, đồng
thau mà rực rỡ nhất là văn hoá Đông Sơn
khoảng thế kỷ 13 trước công nguyên, trong
đó có trống đồng nổi tiếng (Hà Văn Phùng,
1981).
Vào các triều đại phong kiến Đinh, Lê,
Lý, Trần, Lê… đến triều Nguyễn, tuy nhiều
năm liền phải chống ngoại xâm, nhưng
việc khai thác và sử dụng tài nguyên vẫn
được mở mang ngày càng nhiều. Số liệu
thống kê qua các triều đại đến thế kỷ 19 đã
có trên 150 mỏ được khai thác ở Việt Nam
gồm các kim loại cơ bản, sắt và hợp kim sắt,
nhiên liệu, khoáng chất công nghiệp (Phan
Huy Lê, 1963, Lê Văn Cự, 1979-1983).
Qua những sử liệu trên, các hoạt động
liên quan đến địa chất, khai khoáng của
người Việt đã đạt được những trình độ nhất
định rất đáng tự hào.
3. Thời kỳ Pháp thuộc (1858-1945)
Từ khi thực dân Pháp đổ bộ vào Đà
Nẵng năm 1856 đến suốt thời kỳ đô hộ
Việt Nam, các tổ chức về mỏ và địa chất
đã được thành lập, điều hành việc điều tra
địa chất và khai thác tài nguyên khoáng
sản của nước thuộc địa.
Sở Mỏ Nam Kỳ được thành lập vào
năm 1868, rồi đến Nha Mỏ Đông Dương-
1884, Công ty Than Bắc Kỳ - 1888, Sở Địa
chất Đông Dương-1898 (trên giấy tờ là
năm 1894) thuộc Nha Canh nông và thương
mại Đông Dương, đến năm 1904 thuộc Ban
Công chính của Sở Mỏ, năm 1921 nhập
vào Nha Mỏ Đông Dương, năm 1939 thuộc
Ban Tổng Thanh tra Mỏ và Kỹ nghệ Đông
Lịch sử hoạt động liên quan đến địa chất, thăm dò, khai khoáng, chế biến và sử dụng tài
nguyên khoáng sản ở Việt Nam ở những mức độ khác nhau gắn liền với quá trình phát triển
từ thời nguyên thuỷ đến nay đã được ghi nhận qua nhiều di tích khảo cổ và sử liệu.
1. Thời kỳ tiền sử
14
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Dương (Saurrin E., 1951; Hoàng Thị Thân,
1973).
Trên thực tế, từ thế kỷ 16, 17 đã có
những nhà buôn, cha cố phương Tây đến
Việt Nam đã có những nhận định “đây là
một vị trí cần được chiếm lấy, vì chiếm
được vị trí này thì các thương gia châu
Âu sẽ thu được một nguồn lợi rất lớn với
một khả năng tài nguyên rất đỗi dồi dào”
(Alexandre de Rhodes, 1650]. Một số nhà
địa chất Pháp như Arnoux E., 1852; Petiton
A., 1868-1895,… đã có những khảo sát thực
địa và công bố một số công trình địa chất
về Nam Kỳ, Đông Dương; Fuchs E., Saladir
E., 1882 ghi chép về thăm dò các điểm
nhiên liệu và kim loại ở Đông Dương,…
Sở Địa chất Đông Dương đã nhanh chóng
xúc tiến việc điều tra cơ bản lập bản đồ địa
chất ở các tỷ lệ 1:4.000.000 (1882, 1928);
1:2.000.000 (1928, 1931, 1937, 1952, 1971).
Tiếp theo là việc lập bản đồ địa chất tỷ lệ
1:100.000 trên các tờ Thất Khê (1907), Tú
Lệ (1910), Bắc Hà, Hà Giang, Malipo, Yên
Minh (1915), Cao Bằng (1924), Hạ Lang
(1925), Vạn Yên (1929) nhưng do không
đạt được mục tiêu và kéo dài quá lâu nên đã
chuyển sang tỷ lệ 1:500.000 trên các tờ Hà
Nội (1927-1937), Vinh (1928), Cao Bằng
(1930), Huế (1935), Đà Nẵng (Tourane)
(1935), Nha Trang (1937), Sài Gòn (1937),
Quy Nhơn (1942), Khong (1942), Montzeu
(1942), Vĩnh Long (1962).
Ngoài công việc lập bản đồ địa chất,
nghiên cứu cổ sinh, địa tầng (Zeiller R.,
1886-1903; Mansuy H., 1908-1921; Colani
M., 1916-1927; Fontain H., 1954-1994),
thạch học (Lacroix A., 1893-1935); kiến tạo
(Deprat J., 1911-1917, Dussault L., 1921-
1929; Jacob CH., 1920-1932; Fromaget J.,
1927-1952; Saurine E., 1930-1970;…) đặc
biệt là công tác điều tra khai thác tài nguyên
khoáng sản được bắt đầu rất sớm (Arnoux
E., 1854-1855; Fuchs E., Saladin E., 1882;
Sarran E., 1888, 1898; Bel JM., 1898-1901;
Counilon H., 1899-1914; Beauverie E.,
1911; Bordeaux A., 1925-1928; Blondel F.,
1927-1952…)
Năm 1922 Viện Hải dương học Đông
Dương được thành lập. Từ năm 1923-1927
tầu De Lanesssan (Pháp) đã khảo sát độ
sâu đáy biển và thu thập mẫu đáy ở Biển
Đông. Năm 1930 người Pháp đã đo độ sâu,
khảo sát địa hình các khu vực biển nông
ven bờ như vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan,
các đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quốc.
Các công trình chuyên sâu về địa chất
dầu khí rất ít so với địa chất khu vực nói
chung và khoáng sản rắn nói riêng. Tuy
nhiên các tài liệu còn để lại cũng ghi được
những thông tin về dầu khí ở Việt Nam và
Đông Dương đã biết được khá sớm.
Vào năm 1901 đã khoan một vài giếng
khoan tại Đà Nẵng nhưng không gặp khí
cháy tự nhiên. Năm 1910 đã khoan và đào
giếng ở vùng núi Lịch -Yên Bái. Trong
cuộc họp ngày 23-3-1914 của Viện Hàn
lâm Khoa học Pháp D. Launay đã trình bày
ghi chép của P. Durandin “Về sự có thể tồn
tại mỏ dầu khí ở Đông Dương thuộc Pháp
theo các chỉ dẫn địa danh” [4].
Vấn đề dầu mỏ ở Bắc Bộ và những
vùng còn lại thuộc Đông Dương đã được
nêu rõ trong báo cáo chung về công nghệ,
nhân cuộc thanh tra các nước thuộc địa vào
tháng 3/1922 gồm những vùng chính như
sau [8, 9,18]:
1. Bể trầm tích Đệ Tam Đồng Ho (Quảng
Ninh) chứa các vỉa than lignit đang
15
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
được khai thác và đá phiến dầu dày
khoảng 15 m, khi chưng cất cho 3-8%
dầu khoáng (huile minérale) bốc cháy
dễ dàng có thể sử dụng làm chất đốt khi
trộn với lignit.
2. Trầm tích Đệ Tam ở Tuyên Quang.
Trên mái lớp lignit còn gặp đá phiến
sét-vôi màu sôcôla, khi chưng cất cho
ra các dầu khoáng tỷ lệ khác nhau. Hai
thành tạo trên rất giống nhau, nhưng các
bể đó rất hạn chế nên trữ lượng các đá
phiến sơ bộ thấy rằng khó mà xây dựng
được một nhà máy dầu ở nước thuộc
địa này. Tuy vậy, sự tồn tại các lớp đã
phiến chứa bitum không có nghĩa là dấu
hiệu cho sự tồn tại khoáng dầu ở những
vùng này.
3. Trầm tích Paleozoi ở vùng núi Lịch,
hữu ngạn sông Hồng, phía Nam thị xã
Yên Bái 3-4 km có dải đá vôi nứt nẻ,
graphit hoá biểu hiện hydrocarbon xâm
nhiễm tạo thành móng của bể trầm tích
sông-hồ Đệ Tam dày khoảng 1.000 m
bị uốn nếp ở Yên Bái dọc thung lũng
sông Hồng (Viennot P., 1924, Sarran
E., 1899; Fromaget J., 1941)
Vào năm 1910, Nha Mỏ Đông Dương
đã tiến hành khảo sát địa chất, thi công
một số công trình hào, hố ở thượng
nguồn Ngòi Ác, Ngòi Giao, đặc biệt là
khoan ở sườn phía Đông Núi Lịch đến
ngày 12/1/1911 đã tới độ sâu 52 m và
ở đoạn 35 m đã xuyên qua lớp cát kết
màu đen có mùi dầu mỏ nhưng sau đó
đã ngừng bỏ. (La question du pétrole,
1922; Viennot P., 1924). Sau đó vào
năm 1922 theo đề xuất của Guidon
Lavallée thuộc Sở Mỏ ở Hà Nội Piere
Viennot đã cùng với ông ta khảo sát lại
vùng Núi Lịch, Ngòi Ac, Ngòi Giao lập
bản đồ tài liệu thực tế tỷ lệ 1:50.000 và
mặt cắt địa chất qua đỉnh Núi Lịch (242
m) và gửi mẫu phân tích tại Phòng thí
nghiệm của Sở Mỏ cho kết quả có các
hợp chất hydrocarbon [9]. Trong báo
cáo về “Nghiên cứu mỏ dầu Yên Bái..”
tại Hội nghị của Hội Địa chất Pháp vào
ngày 1/12/1924 do F. Delafond làm
chủ toạ, P. Viennot, 1924 [19] đã điểm
qua các nghiên cứu về địa chất của
Beauverie E., 1911, Zeiller R., 1893,
Dussault L., 1922, 1929 liên quan đến
Hình 2.1. Mặt cắt địa chất qua vùng núi Lịch (theo Pierre Viennot, 1922)
16
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
vùng Yên Bái gồm các thành tạo biến
chất, các trầm tích Paleozoi và bể Đệ
Tam có nhận định sự xuất lộ dầu ở đây,
tuy không có khả năng tồn tại một mỏ
dầu nhưng có thể đây là dấu hiệu tốt
cho công tác tìm kiếm dầu mỏ ở xứ sở
này (Hình 2.1 và hình 2.2).
4. Vùng Tourane (Đà Nẵng) người ta đã
thông báo về sự tồn tại cát kết chứa
dầu mỏ và được xác nhận của nhà thăm
dò (Prospecteur) điều tra cho biết đã
có dầu khoáng rò rỉ trong 20 năm qua
từ khi làm các nền móng công trình ở
vùng này và trong mẫu cát được phòng
thí nghiệm cho kết quả có lẽ là hỗn hợp
của hydrocarbon [8].
Về phương diện địa chất nếu sự tồn tại
hydrocarbon là có khả năng trong bể
Mesozoi Nông Sơn ở Tây Nam Đà Nẵng
thì nó lại ít có khả năng ở gần thành phố
này nơi người ta chỉ biết ngoài bồi tích
hiện tại là đá biến chất kết tinh, việc
kéo dài của bể này dưới những bồi tích
có lẽ khoảng 10 km ở phía Nam Đà
Nẵng.
5. Điểm lộ dầu ở vùng đầm Thị Nại ở Quy
Nhơn được phát hiện vào năm 1920 và
Saurin E., 1944 mô tả ở làng Hội Lộc,
chân phía Tây núi Eo Vược nơi bờ biển
dốc đứng có dầu rỉ lộ ra loang trên bề
mặt bùn, cát lấp đầy các khe nứt trong
đá granit khi thuỷ triều rút xuống. Dầu
thu được do chưng cất dung dịch màu
nâu, nặng có thuộc tính Parafin và chỉ
số khúc xạ là 1,425 ở nhiệt độ 280 C.
Ông ta cho rằng dấu hiệu giả định có
sự tồn tại dầu trong trầm tích vũng vịnh
ở sâu dưới trầm tích hiện đại và không
nghi ngờ gì nó thuộc Neogen, hoặc có
thể là phần thấp của Đệ Tứ.
Tại đây, vào năm 1944, người Pháp
đã tiến hành khoan thăm dò các vùng
phía Tây Hội Lộc, Đông Kỳ Sơn thuộc
vịnh Quy Nhơn đến độ sâu 40 m gặp đá
móng granit và trên đó là lớp bùn cát
biển màu xám nhưng không phát hiện
ra dầu. Sau đó vào năm 1945 người
Nhật cũng tiến hành khoan thêm một
số giếng nhưng cũng không cho điều gì
mới [5]. Đến năm 1957, Saurin E. trở
lại nghiên cứu điểm dầu này gần làng
Hội Lộc bên dưới lớp cát biển 20 cm là
lớp bùn cát màu đen, mùi thối có những
váng dầu loang trên lớp bùn sapropel
phong phú những mảng vụn thực vật
(tảo) như là đá mẹ của dầu phân tán,
rải rác ở vịnh Quy Nhơn. Từ những kết
quả nghiên cứu mới này, cộng với tài
liệu thăm dò 1944, Saurin E., 1964 lại
có nhận định rằng dầu ở đây không
phải từ trầm tích Neogen hay Đệ Tứ cổ
mà chính là lớp bùn Sapropel giàu mùn
thực vật ở vịnh Quy Nhơn.
4. Thời kỳ từ Cách mạng tháng 8 (1945)
đến nay
4.1. Giai đoạn 1945-1954
Cách mạng Tháng 8 (1945) đã đưa Việt
Nam từ một nước thuộc địa trở thành một
Hình 2.2. Mặt cắt địa chất qua điểm lộ dầu núi
Lịch (theo Báo cáo Sở mỏ Đông Dương, 1922)
17
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
nước độc lập. Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đã tổ chức lại ngành địa chất và
mỏ.
Năm 1945 Nha Kỹ nghệ, Sở Tổng
Thanh tra Khoáng chất và Kỹ nghệ được
thành lập trực thuộc Bộ Quốc dân Kinh tế.
Năm 1946 Sở Địa chất và Sở Khoáng chất
được tách ra nhưng vẫn nằm trong Bộ Quốc
dân Kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954) chỉ có một số hoạt động địa
chất và mỏ với quy mô nhỏ được tiến hành
nhằm phục vụ trực tiếp cho quốc phòng và
dân sinh.
Trong vùng Pháp tạm chiếm, Sở Địa
chất Đông Dương được đưa vào Trung tâm
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật từ năm
1951, sau đó chuyển vào Sài Gòn từ năm
1954 đặt trong Tổng Nha Mỏ, Công nghiệp
và Thủ công nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch
và sau thuộc Bộ Tài chính và Kinh tế quốc
dân. Hoạt động địa chất không có gì nhiều,
ngoài việc một số nhà địa chất Pháp như
Fromaget J., Saurin E.,… công bố một số
công trình nghiên cứu địa chất ở Lạng Sơn,
Hải Phòng… và ở một số hòn đảo, … đáng
kể là việc tái bản công trình bản đồ địa chất
Đông Dương tỷ lệ 1:2.000.000 do Fromaget
J., Saurin E., thành lập (1952).
4.2. Giai đoạn 1954-1975
a. Miền Bắc Việt Nam
Sau khi miền Bắc Việt Nam được giải
phóng (1954), Chính phủ Việt Nam đẩy
mạnh hoạt động địa chất và mỏ với sự giúp
đỡ của Liên Xô (cũ), Trung Quốc và các
nước Đông Âu. Chính phủ đặc biệt quan
tâm đến việc đào tạo chuyên gia trong nước
và gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Một khối lượng to lớn các công trình
khảo sát địa chất, tìm kiếm, thăm dò và khai
thác các khoáng sản đã được hoàn thành
trong giai đoạn này. Độc giả có thể tìm hiểu
trong “Thư mục địa chất Việt Nam” (Cục
Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. Hà Nội
1998); chẳng hạn như “Địa chất miền Bắc
Việt Nam” và bản đồ địa chất miền Bắc
Việt Nam (1965) (do Dovjikov A.E. chủ
biên. 1965); “Bản đồ địa chất Việt Nam
phần miền Bắc tỷ lệ 1:1.000.000” (do Trần
Văn Trị chủ biên. 1973)… Dưới đây chúng
tôi chỉ nêu các hoạt động liên quan đến địa
chất dầu khí.
Năm 1956 Viện sỹ Griaznov N.K. (Liên
Xô cũ) nhận định miền Bắc Việt Nam có
triển vọng dầu khí. Từ 1959-1961 Kitovani
S.K. cùng với các đồng nghiệp Việt Nam
đã nghiên cứu tài liệu của các nhà địa chất
Pháp, khảo sát 11 tuyến khoảng 25.000 km
lộ trình đã hoàn thành báo cáo “Địa chất
và triển vọng dầu khí ở Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà” [13]. Đây là công trình tổng hợp
đầu tiên về địa chất và đánh giá triển vọng
dầu khí ở Việt Nam. Theo tác giả, miền
Bắc Việt Nam có 4 vùng triển vọng (Hình
2.3):
1. Vùng trũng giữa núi tam giác châu
sông Hồng.
2. Vùng được cấu tạo bởi các trầm
tích lục nguyên Mesozoi trên nền
Caledoni bị biến chất Paleozoi sớm.
3. Vùng được cấu tạo bởi trầm tích lục
nguyên Mesozoi trên tầng Hercyni bị
lún chìm không sâu.
4. Vùng được cấu tạo bởi trầm tích lục
nguyên Paleozoi giữa-trên.
Ngày 27-11-1961 Đoàn Địa chất 36 trực
thuộc Tổng cục Địa chất được thành lập.
18
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Ngày 9-10-1969 Chính phủ ký quyết định
số 203/CP thành lập Liên đoàn Địa chất
36. Đây là đơn vị địa chất đầu tiên được
tổ chức để tiến hành khảo sát, tìm kiếm và
thăm dò dầu khí ở Bắc Việt Nam. Bắt đầu
từ đây với sự quan tâm chỉ đạo của Chính
phủ, sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ), hoạt
động tìm kiếm thăm dò dầu khí ở miền Bắc
Việt Nam được triển khai một cách mạnh
mẽ, đồng bộ với tổ hợp các phương pháp
địa chất, địa vật lý, địa hoá, khoan vẽ bản
đồ, khoan cấu tạo, thông số, tìm kiếm thăm
dò ở vùng trũng Hà Nội và sau này là vùng
trũng An Châu. (Hình 2.4).
Hình 2.3. Bản đồ sơ lược về triển vọng dầu mỏ và khí thiên nhiên miền Bắc Việt Nam
19
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
Đã tiến hành khảo sát từ hàng không
tỷ lệ 1:200.000 trên toàn miền Bắc Việt
Nam (Ivanhiukov I.D. 1961). Đo trọng lực
tỷ lệ 1: 200.000 trên diện tích 12000 km2
vùng trũng Hà Nội (Epstêin N.V. 1961-
1963); sau đó là tỷ lệ 1: 500.000 trên toàn
miền Bắc (Nguyễn Hiệp 1964-1973); tỷ lệ
1:200.000 ở vùng trũng An Châu và vùng
trũng Ninh Bình, tỷ lệ 1:50.000 và 1:25.000
ở Đông Nam vùng trũng Hà Nội (Nguyễn
Hiệp, Giang Công Thịnh 1965-1973).
Công tác thăm dò địa chấn bắt đầu từ
năm 1962 với phương pháp phản xạ được
tiến hành 2.260 km ở Đông Nam vùng trũng
Hà Nội (Macsiutova, Hồ Đắc Hoài, Trương
Minh), 232 km tuyến khúc xạ (Nguyễn Trí
Liễn).
Công tác thăm dò điện được bắt đầu
từ năm 1964 với trên 1.532 km tuyến chủ
yếu tập trung ở Đông Nam vùng trũng Hà
Nội (Pornhiagin M.A., Tăng Mười, Nguyễn
Tấn Kích…).
Công tác khoan cấu tạo được bắt đầu từ
năm 1962 tập trung chủ yếu ở vùng trũng
Hà Nội với chiều sâu các giếng khoan từ
150 m đến 1.200 m với tổng số khoảng 20
nghìn mét khoan. Công tác khoan sâu bắt
đầu từ năm 1970 với giếng khoan thông
số 100 tại Tiên Hưng (Thái Bình) đạt độ
sâu kỷ lục lúc bấy giờ (1970) là 3.303 m.
Cho đến năm 1975 đã khoan được 7 giếng
khoan sâu với tổng 17684 m khoan. Giếng
khoan 61 ở cấu tạo Tiền Hải “C” đã phát
hiện dòng khí lẫn condensat công nghiệp từ
cát kết thuộc hệ tầng Tiên Hưng.
Có thể nói rằng kết quả khảo sát địa
chất, địa vật lý và khoan trong giai đoạn
này đã cho thấy bức tranh toàn cảnh cấu
trúc địa chất của miền Bắc Việt Nam liên
quan đến việc đánh giá triển vọng dầu khí;
và đặc biệt cấu trúc địa chất sâu bên dưới
lớp phủ trầm tích Đệ Tứ khá dày của vùng
trũng Hà Nội lần đầu tiên được nghiên
cứu; đã phát hiện được những hệ thống
đứt gãy phức tạp (sông Chảy, sông Hồng,
sông Lô, Vĩnh Ninh…), các dải nâng Kiến
Xương-Tiền Hải, các vùng sụt lún Đông
Quan, Phượng Ngãi có chiều dày trầm tích
Hình 2.4. Khảo sát địa chất tại vùng An Châu (ảnh tư liệu)
20
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Đệ Tam vượt trên 3 km, cũng đã phát hiện
nhiều cấu tạo đa dạng chịu tác động của
các hoạt động kiến tạo mạnh mẽ…
Các nghiên cứu về thạch học, trầm tích,
cổ sinh (vi cổ sinh, bào tử phấn hoa…) đã
được triển khai (Trầm tích và điều kiện
thành tạo trầm tích Neogen-Đệ Tứ miền
trũng Hà Nội. Glovênok V.K., Lê Văn
Chân. 1966,..) trong đó phải kể đến công
trình tổng hợp tài liệu đầu tiên là báo cáo
“Cấu trúc địa chất và triển vọng dầu khí
của miền trũng Hà Nội” của Kisliakov
V.N., Golovenok V.K. (1970). Trong giai
đoạn này đã hình thành dần quan điểm triển
vọng dầu khí ở vùng trũng Hà Nội tăng dần
về phía biển.
Ngoài vùng trũng Hà Nội, công tác
khảo sát địa chất, địa vật lý (trọng lực và
điện) và một vài giếng khoan cấu tạo tìm
kiếm cũng được triển khai ở vùng trũng
Mesozoi An Châu (Nguyễn Quang Hạp,
1965-1967; Nguyễn Hiệp, 1972; Trần Ngọc
Toản, 1974), các kết quả đã được tổng
hợp trong báo cáo “Cấu trúc địa chất và
triển vọng chứa dầu vùng trũng An Châu”
(1967-1970) do Ngô Thường San chủ biên.
Song một số chuyên gia địa chất (Makarov.
1972) lại cho rằng vùng này không có triển
vọng dầu khí vì cấu trúc địa chất vùng này
không thuận lợi cho khả năng sinh, chứa,
chắn dầu khí.
b. Miền Nam Việt Nam
Trong khi ở miền Bắc Việt Nam hoạt
động địa chất nói chung và tìm kiếm thăm
dò dầu khí nói riêng được đẩy mạnh thì ở
Hình 2.6. Giếng khoan thăm dò phát hiện khí
đầu tiên ở Tiền Hải C Miền Võng Hà Nội
(ảnh tư liệu)
Hình 2.5. Giếng khoan thăm dò ở châu thổ
sông Hồng (ảnh tư liệu)
21
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
miền Nam Việt Nam chính quyền Sài Gòn
không tiến hành gì nhiều hoạt động địa chất
trên đất liền, ngoài việc một số nhà địa chất
Pháp như Saurin E., Fontaine H. và một số
nhà địa chất Việt Nam như Tạ Trần Tấn,
Nguyễn Lan Tú, Hoàng Thị Thân, Trần
Kim Thạch, Nguyễn An Cư… hoặc chỉnh
lý các nghiên cứu trước đây hoặc nghiên
cứu về kiến tạo, địa tầng, hoá đá, suối nước
nóng… ở một số vùng trên đất liền và một
số hòn đảo. Cũng đã xuất bản một số tờ
bản đồ địa chất tỷ lệ nhỏ 1:500.000 (các tờ
Nha Trang, Vĩnh Long, Sài Gòn…), đáng kể
nhất là công trình của Fontaine H., tái bản
lần thứ ba bản đồ địa chất Đông Dương tỷ
lệ 1:2.000.000 do Fromaget J. và Saurin E.
thành lập, có hiệu đính phần Nam vĩ tuyến
17 (1971) và Từ điển địa tầng Đông Dương
của Saurin E., 1956 [23].
Năm 1967, Sở Hải dương Hoa Kỳ đo từ
hàng không trên toàn miền Nam Việt Nam
tỷ lệ 1:250.000.
Năm 1968 Bộ Phát triển hải ngoại Anh
tiến hành khảo sát địa chấn khúc xạ (khoảng
290 km tuyến) và phản xạ (370 km tuyến)
ngoài khơi khu vực đảo Thổ Chu, kết quả
cho biết chiều dày trầm tích Mesozoi ở đây
có thể tới 3-4 km [2]. Cùng năm công ty
Alpine Geophysical Corporation đo 19.500
km tuyến địa chấn và lấy mẫu ở Biển
Đông.
Năm 1969-1970 công ty Ray
Geophysical Mandrel khảo sát 12.121 km
tuyến địa chấn, từ và trọng lực ở thềm lục
địa Nam Việt Nam.
Năm 1969 Hồ Mạnh Trung dựa trên
tài liệu từ hàng không công bố “Khảo lược
cấu trúc đồng bằng sông Cửu Long và thảo
luận về vấn đề dầu mỏ” [11]. Sau đó (1971)
Bosum W.E., Kind E.G., Hồ Mạnh Trung
nghiên cứu cấu trúc châu thổ Mêkông dựa
trên tài liệu từ hàng không cho rằng ở các
bồn trầm tích Cần Thơ, Cà Mau trầm tích
dày từ 3-5 km. Các trầm tích Lias, Trias và
có thể trẻ hơn cùng với đá vôi Permi có thể
có giá trị tìm kiếm dầu khí [1].
Ngày 1-12-1970 chính quyền Sài Gòn
ban hành đạo luật số 011/70 ấn định việc
tìm kiếm khai thác dầu mỏ cùng điều kiện
thuế khoá và hối đoái. Tháng 1-1971 Uỷ
ban Quốc gia dầu mỏ được thành lập theo
sắc lệnh số 003-SLKT ngày 7-1-1971. Sau
đó thành lập Tổng cuộc dầu hỏa và khoáng
sản.
Tháng 6-1971 Bộ Kinh tế công bố Nghị
định số 249/BKT/UBQGDH ngày 9-6-1971
về cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm thăm
dò dầu mỏ tại thềm lục địa Việt Nam Cộng
hoà và quy định cho đấu thầu đặc nhượng.
Tổng cộng có 61 lô được đưa ra đấu thầu.
Năm 1972 công ty GSI (Geological
Service Inc.) khảo sát 5.000 km địa chấn
2D khu vực miền Trung và quần đảo Hoàng
Sa.
Tháng 6-1973 công ty Robertson
Research International Limited (Anh) và
BEICIP (Bureau d’Etudes Industrielles et
de Cooperation de l’Institut Francais du
Pétrole - Pháp) phối hợp làm báo cáo “Địa
chất và khai thác hydrocarbon ở ngoài khơi
Nam Việt Nam” tập trung đánh giá khả
năng sinh, chứa, chắn, bẫy ở bể Cửu Long,
vịnh Thái Lan và bể Sài Gòn [22].
Cùng thời gian này chính quyền Sài
Gòn tổ chức đấu thầu đợt 1 trên 8 lô cho
4 nhóm công ty: Pecten Việt Nam (lô 06,
07, 08. TLĐ); công ty Mobil Oil (lô 03, 04
TLĐ); công ty Sunningdale (lô 01, 02.TLĐ)
22
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
và công ty ESSO (lô 05 TLĐ) với tổng diện
tích 57.223 km2, trong đó 4 lô ở bể Cửu
Long, 4 lô ở bể Nam Côn Sơn (Hình 2.7).
Hình 2.7. Dự định đặc nhượng tìm kiếm
khai thác dầu khí (dùng trong nghị định
gọi thầu ngày 19/2/1974)
Tháng 4-1974 đấu thầu đợt 2 với 9 lô
cho 5 nhóm công ty: công ty Mobil-Keiyo
(lô 12A, 12B TLĐ); Pecten BHP (lô 09
TLĐ); IOL (lô 10 TLĐ) Marathon (lô 11
TLĐ), OMO (lô 10, 14, 19, 23 TLĐ) với
diện tích mỗi lô là 4.500 km2 (Hình 2.8).
Hình 2.8. Khu vực hợp đồng giai đoạn 1973-1975
Sau khi trúng thầu các công ty đã tiến
hành đo địa chấn với mạng lưới 8x8 km,
4x4 km trên toàn lô và 2x2 km trên các
diện tích có triển vọng. Tổng chiều dài đo
địa chấn trong thời gian này lên tới 87.908
km.
Cuối năm 1974 đầu 1975 công ty Pecten
và Mobil đã khoan 6 giếng tìm kiếm trên
5 cấu tạo, trong đó có 4 giếng khoan và 1
giếng chưa kết thúc ơ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_2_7531.pdf