Một công cụ quan trọng nhất để nhà nước thực hiện vai trò kinh tếlà việc
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, ban hành chính sách và luật pháp. Để
quản lý tốt hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, từng bước đưa vào quy hoạch
thống nhất, thời gian qua cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác đầu tư đã phác
thảo chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài là hết sức quan trọng, đã vạch ra
phương hướng, mục tiêu và các biện pháp chủ yếu cho hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
35 trang |
Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, dạy nghề…).
b. Luật pháp liên quan đến đầu tư nước ngoài đang trong quá trình hoàn
thiện còn nhiều chồng chéo mâu thuẫn, việc thực hiện luật pháp điều chỉnh trực
tiếp hoạt động đầu tư nước ngoài còn chưa được ban hành (như luật cạnh tranh,
chống độc quyền, còn chưa thống nhất giữa luật đầu tư trong nước và luật đầu tư
nước ngoài…) Tình trạng các văn bản hướng dẫn thi hành luật còn chậm, nhiều
vấn đề chồng chéo, mẫu thuẫn giữa các văn bản pháp quy.
c. So với một số nước trong khu vực, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
đang giảm dần do các chi phí đầu vào cao, thủ tục hành chính còn rườm rà,
chính sách đi vào cuộc sống còn chậm.
- Theo báo cáo của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETR), chi phí
các nước trong khu vực, đặt biệt là Trung Quốc. Cho đến nay, cước phí dịch vụ
cảng biển và vận tải biển từ Việt Nam, cước viễn thông quốc tế, giá điện, phí
đăng kiểm và chi phí gải phóng mặt bằng tại Việt Nam cao hơn trong khu vực,
bên cạnh đó ưu thế về nguồn lao động rẻ bị mất dần. Trong khi đó các ngành
côn nghiệp phụ trợ của Việt Nam kém phát triển, điển hình là các ngành sản
25
xuất, lắp ráp ô tô, xe máy và may mặc. Các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần
lớn các linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu, và chỉ thực hiện công đoạn lắp ráp, gia
công tại Việt Nam, nên giá trị gia tăng thực tại Việt Nam thấp, đồng thời thực tế
này làm giá thành sản phẩm cao, hạn chế sức cạnh của sản phẩm.
26
CHƯƠNG BA
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI THEO HƯỚNG PHỤC VỤ TỐT HƠN
CÔNG CUỘC CNH, HĐH CỦA ĐẤT NƯỚC.
Trước nhiệm vụ phát triển kinh tế của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, để đạt
nhịp độ tăng trưởng GDP trên 7% năm, Việt Nam chủ trương tiếp tục thu hút
nhiều hơn, với chất lượng cao hơn nguồn vốn đầu trực tiếp nước ngoài để đẩy
nhanh CNH - HĐH đất nước.
Mục tiêu trong 5 năm 2001 - 2005 đối với vốn đầu tư nước ngoài là thu
hút mới được 12 tỷ USD vốn đăng ký và 11 tỷ USD vốn thực hiện. Đến năm
2005, ĐTNN sẽ đóng góp khoảng 15% GDP, 25% kim ngạch xuất khẩu và trên
10% tổng thu ngân sách. Đây là thách thức lớn trong bối cảnh sau khủng hoảng
tài chính - tiền tệ năm 1997, dòng vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm,
trong khi nhiều nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc đang tích cực cải thiện
môi trường đầu tư và trở thành điểm hút mạnh nguồn vốn FDI. Thực tế này đòi
hỏi chúng ta phải đổi mới đồng bộ, khẩn trương cơ chế chính sách, nhất là khâu
điều hành để thực hiện thắng lợi mục tiêu thu hút nhiều hơn và sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn FDI theo tinh thần nghị quyết đại hội IX của Đảng. Theo hướng
này cần thống nhất về nhận thức, xây dựng chính sách đảm bảo sự ổn định, minh
bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đang hoạt động, mở rộng mục tiêu,
quy mô dự án, đa dạng hoá các hình thức đầu tư, phù hợp với quy định của pháp
luật và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.
Rồi thế cần phải có những giải pháp đồng bộ, hiệu quả để thúc đẩy hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phục vụ tốt hơn công cuộc CNH,
HĐH đất nước.
I. CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
Thứ nhất: Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bộ máy, nhà nước trong
sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo lòng tin của nhân
dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà nước bảo đảm trật tự an ninh
xã hội, ngăn chặn và xử lý thật nghiêm khắc mọi hành vi gây rối, bảo vệ tốt tính
mạng và tài sản của các thành viên trong xã hội.
Thứ hai: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng, kiềm
chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả.
Thứ ba: Hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài bằng các điều khoản có tính chất ưu đãi về mặt lợi ích kinh tế của họ
và đảm bảo an toàn về vốn cho họ. Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ và
đồng bộ, đảm boả thi hành pháp luật nghiêm chỉnh.
Thứ tư: Xây dựng chiến lược hợp tác đầu tư với nước ngoài trên cơ sở của
chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Khẩn trương hoàn htiện quy hoạch tổng
thể đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó cần có quy hoạch cụ thể về cơ
cấu kinh tế (theo ngành và lãnh thổ), quy hoạch các khu công nghiệp, các sản
phẩm quan trọng…
27
Thứ năm: Phát triển kinh tế thị trường và thiết lập hệ thống thị trường
đồng bộ tạo điều kiện cho chính thị trường đầu tư hoạt động có hiệu quả. Nhanh
chóng hình thành thị trường tài chính ngân hàng, đáp ứng những đòi hỏi bức
bách của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ sáu: Tích cực chủ động tiến hành xúc tiến đầu tư, tạo lập và lựa chọn
các đối tác đầu tư nước ngoài, lựa chọn các hình thức thu hút FDI phù hợp và có
hiệu quả, đa dạng và đa phương hoá trong hợp tác đầu tư. Tăng cường quan hệ
ngoại giao với các nước theo chủ trương "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả với
các nước".
Thứ bảy: Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, nhân viên kỹ thuật và tay
nghề theo hướng trang bị kiến thức cơ bản và đào tạo chuyên sâu.
Thứ tám: Củng cố quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI, nâng cao
năng lực quản lý của các cấp, các ngành, các địa phương và đơn vị hợp tác đầu
tư với nước ngoài. Phân cấp quản lý chặt chẽ, đồng bộ, đảm bảo sự tập trung
thống nhất, khắc phục hiện tượng chia cắt phân tán. Cải các thủ tục hành chính
theo hướng nhanh gọn, hiệu quả, đơn giản hoá các thủ tục tiếp nhận FDI.
Thứ chín: Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng. Đây không
phải là một công việc dễ dàng trong điều kiện tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn
nhỏ bé, nhất là nguồn vốn ngân sách nhà nước còn hạn chế. Vì vậy, một mặt
chúng ta phải huy động tối đa khả năng của mình, cần tranh thủ sự ủng hộ của
các tổ chức và chính phủ các nước. Khi chưa có đủ điều kiện phát triển đồng bộ
hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thì nên tập trung xây dựng dứt điểm
những công trình then chốt của nền kinh tế.
Thứ mười: Phát triển mạnh nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước và sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó một mặt phải củng cố
kinh tế quốc doanh theo hướng hiệu quả, đồng thời phải phát triển mạnh kinh tế
tư nhân dưới nhiều hình thức.
Mười một: Dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với phân công
lao động quốc tế. Một cơ cấu kinh tế mới chỉ nên tậ trung phát triển mạnh những
ngành và lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
Mười hai: Mở cửa về thông tin trong và ngoài nước, nhất là thông tin kinh
tế, thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ dưới mọi hình thức. Thiết lập
một thị trường thông tin công bằng đối với mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo
quyền được thông tin của mọi người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Như vậy: Những yếu tố trên đây có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả thu
hút vốn FDI. Nhưng nếu chỉ có các điều kiện vật chất của nền kinh tế thì chưa
đủ. Điểm quan trọng là phải dung hoà lợi ích của cả hai bên. Vì những mục đích
lâu dài của đất nước, trong một số trường hợp chúng ta cũng đành phải nhượng
bộ và chấp nhận hy sinh lợi ích trước mắt. Chúng ta sẽ thành công trong hợp tác
28
nước ngoài nếu chúng ta biết xử lý vấn đề một cách khôn kheó và không để mắc
những sai lầm có tính nguyên tắc.
1. Xây dựng định hướng chiến lược và quy hoạch tổng thể về thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chiến lược thu hút FDI được xem là một hình thức biểu hiện cụ thể của
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phản ánh sự kết hợp hài hoà
của việc phát huy nội lực với phát huy nguồn lực bên ngoài để đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, là cơ sở để xây dựng
các quy hoạch và kế hoạch thu hút FDI theo ngành, lĩnh vực kinh tế và vùng
lãnh thổ. Tuy nhiên, đến nay chúng ta chưa xác định chính thức quy hoạch phát
triển đối với một số ngành chủ chốt, trong khi đó một số ngành tỏ ra có sức hấp
dẫn đối với nhiều nhà đầu tư thì gần như bão hoà về nhu cầu đầu tư. Đây là một
trong những lý do tình trạng chừng lại và giảm sút của đầu tư TTNN vào Việt
Nam. Để cải thiện tình hình này, một mặt chúng ta phải cải thiện và tăng tính
hấp dẫn của các văn bản pháp quy thì việc nâng cao chất lượng quy hoạch thu
hút FDI cũng trở nên cần thiết thế nên phải chú trọng công tác dự báo, cập nhật
thông tin thị trường trong nước, quốc tế, đảm bảo sự thống nhất giữa quy hoạch
về kế hoạch đảm bảo sự thống nhất giữa quy hoạch các bộ, ngành và địa phương
trong việc thu hút FDI. Cần xây dựng danh mục kêu gọi dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong 5 năm tới. Điều này một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư nước ngaòi trong việc lựa chọn dựáan đầu tư. Mặt khác công khai
làm căn cứ cho các ngành, địa phương tính toán chủ động trong kêu gọi vốn đầu
tư một cách hợp lý, có hiệu quả, giải toả được những bất hợp lý trong cơ cấu đầu
tư nước ngoài theo kinh tế, kỹ thuật, và vùng lãnh thổ vừa qua.
Để xây dựng chiến lược tốt phải dựa trên cơ sở xác định một cách khoa
học các yếu tố cần thiết để có một cơ cấu kinh tế CNH, HĐH thích hợp với yêu
cầu phát triển của đất nước trong tương lai. Đã đến lúc chúng ta phải xem xét kỹ
lưỡng hơn trong việc phê duyệt các dự án đầu tư. Đối với vấn đề này một mặt
chúng ta có những chính sách ưu đãi tương xứng hơn với mức độ chênh lệch về
các điều kiện kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng… Giải pháp bổ sung nhằm khắc
phục tình trạng này là một mặt nhà nước ta tìm cách huy động các nguồn ODA,
cùng với vốn ngân sách nhằm chủ động đầu tư vào những vùng, những ngành
kinh tế, cơ sở hạ tầng… Mặt khác tiếp tục nghiên cứu bổ sung các chính sách ưu
đãi thoả đáng đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực
công nghiệp chế biến (trong đó chú ý hơn cho công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản) đầu tư vào các vùng có cơ sở hạ tầng chưa phát triển điều kiện kinh tế
xã hội còn khó khăn, vùng xâu, vùng xa.
2. Cải thiện môi trường đầu tư.
Cải thiện môi trường đầu tư được thực hiện trong cả 5 năm (luật pháp, cơ
sở hạ tầng, thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh, hệ thống trọng tài và toà
án).
a. Về vấn đề thủ tục hành chính và phát triển cơ sở hạ tầng.
29
Giải quyết về thủ tục hành chính: những trở ngại về thủ tục hành chính
đang là một nhân tố cản trở quá trình thu hút FDI. Môi trường đầu tư có được
cải thiện hay không, theo ý kiến của đại bộ phận các nhà đầu tư nước ngoài và
doanh nghiệp trong nước, chính là có cải cách được bộ máy nhà nước, giảm
thiểu được thủ tục hành chính không cần thiết giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời
gian hình thành và triển khai dự án đầu tư… Do vậy chính phủ cần dành nhiều
thời gian để chỉ đạo có hiệu lực hơn công việc cải cách hành chính, cần có các
hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với những cá nhân và tổ
chức trong viẹec thực hiện chủ trương quan trọng và có ý nghĩa thời sự trọng đại
này.
Cơ sở hạ tầng yếu kém. Những bất cập của yếu tố quản lý cần sớm được
khắc phục. Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam như đường sá, cầu, bến cảng, sân bay,
điện nước, thông tin liên lạc đã được ưu tiên đầu tư và có nhiều thay đổi sâu sắc,
góp phần quan trọng vào việc phát triển ở Việt Nam trong thời gian qua. Tuy
nhiên so với các nước trong khu vực các nước công nghiệp phát triển thì cơ sở
hạ tầng ở Việt Nam còn rất lạc hậu. Trong những năm tới cũng như lâu dài, đầu
tư vào cơ sở hạ tầng vẫn được nhà nước khuyến khích đầu tư nhiều nguồn vốn
từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn ODA, nguồn vốn tự có từ các doanh nghiệp
nhưng cũng cần nghiên cứu thu hút nguồn vốn tư nhân trong nước góp phần xây
dựng cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Theo "phân tích thương mại và đầu tư Việt Nam" của Uỷ ban Châu Âu
những việc mà Việt Nam làm đả cải thiện môi trường đầu tư là "cải cách hành
chính và thể chế cần thiết để hoạt động cho các Công ty đầu tư nước ngoài là
những vấn đề quan trọng hơn rất nhiều so với các khuyến khích tài chính mà
chính phủ đưa ra, giảm tói đa bệnh quan bên và sự áp dụng các quy định mọt
cách tuỳ tiện sự thay đổi các nguyên tắc ra quyết định trong hội đồng quản trị
đối với các liên doanh, xoá bỏ sự phân biệt đối xử với các Công ty đầu tư nước
ngoài về giá dịch vụ cơ sở hạ tầng và các dịch vụ khác".
b. Hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài
và các chính sách có liên quan.
Xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn thông thoáng, rõ ràng, ổn định và
mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Triển khai việc nghiên
cứu dễ tiến tới xây dựng một bộ luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và
ĐTNN. Hoàn chỉnh hệ thống páhp lý chung về kinh tế để tạo lập môi trường
kinh tế ổn định, bình đẳng, sớm ban hành luật về kinh doanh bất động sản, luật
cạnh tranh và chống độc quyền…
Luật đầu tư doanh nghiệp
Hiện nay chúng ta đã có luật "luật đầu tư nước ngoài" luật khuyến khích
đầu tư trong nước nhưng chúng ta chưa có luật cạnh tranh, luật chống phá giá…
nên mức độ điều chỉnh pháp luật còn có sự khác biệt giữa các loại hình doanh
nghiệp nhiều khi còn có sự phân biệt và thiếu nhất quát trong các quy định về
quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp
trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt quan trọng
30
là sự chưa hoàn thiện của hành lang pháp lý, sự "vắng bóng" của một hệ thống
văn bản hoàn chỉnh để quản lý các doanh nghiệp liên doanh nghiệp nói riêng và
các doanh nghiệp có vốn đầu tư Việt Nam nói chung. Cần nhấn mạnh sự quản lý
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay chưa chặt chẽ. Chúng ta chưa
có những quy định cụ thể cũng như tổ chức hoàn chỉnh về quản lý doanh nghiệp
FDI sau khi cấp giấy phép. Để khắc phục tình trạng trên haynói cách khác là để
xoá đi những khoảng tối trong bức tranh toàn cảnh đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam cần phải kết hợp rất nhiều giải pháp: Thứ nhất, cần tăng cường việc quản
lý, giám sát các hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Thứ hai, cần tăng cường
công tác kiểm định và nâng cao vai trò giám định của tổ chức giám định tại Việt
Nam. Thứ ba, cần sớm khắc phục tình trạng chồng chéo, thống nhất giữa các
văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Thứ tư,
cần mở rộng hơn nữa các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ
năm là cần nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng hướng chọn cán bộ lãnh đạo cho
nhà nước Việt Nam trong các doanh nghiệp FDI. Ngoài tất cả các phương pháp
nói trên, trong trường hợp các doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng thua lỗ kéo
dài thì nhà nước cố gắng duy trì hoạt động của các doanh nghiệp này bằng các
chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, cùng các doanh nghiệp thảo
luận và khắc phục.
Đổi mới hoàn thiện các chính sách
Tiếp tục nghiên cứu và sớm cho sửa đổi một số chính sách nhằm tạo thêm
điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Chẳng hạn sửa đổi bổ sung một số chính.
- Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư. Điều chỉnh giá phí các
loại hàng hoá, dịch vụ để sau một thời gian về cơ bản áp dụng một mặt bằng giá
cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Trước mắt
thực hiện giảm giá cước viễn thông, vận tải hàng không, giảm giá thuế đất…
Tạo điều kiện giúp doanh nghiệp giảm cih phí đầu vào để tăng sức cạnh tranh, từ
đó hấp dẫn các dự án đầu tư mới.
- Đối với tiền thuê đất có thể miễn giảm tiền thuê đất trong một sóo năm
để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, giải quyết dứt điểm tình trạng giải phóng
mặt bằng đền bù đang bị ách tắc cho việc triển khai dự án. Tiếp tcụ ban hành
văn bản hướng dẫn về điều kiện, thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất.
- Cải tiến công cụ thuế sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao
động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, xây dựng
chính sách thuế khuyến khích sản xuất phụ tùng linh kiện, nâng cao tỉ lệ nội địa
hoá. Hoàn chỉnh hệ thống thuế xuất khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, hoàn
thiện các quy định về hợp đồng kinh tế, sở hữu trí tuệ, cải tiến hệ thống tín dụng,
bảo hành đầu tư, phá sản đối với các doanh nghiệp ĐTNN.
- Cho phép các doanh nghiệp tham gia trực tiếp thuê lao động để sản xuất,
gảim dần tình trạng các doanh nghiệp FDI phải sử dụng lao động qua các tổ
chức cung ứng của Việt Nam hiện nay. Để làm được vấn đề này cần xem xét sửa
đổi lại quy định tại bộ luật lao động theo hướng cho phép các doanh nghiệp đầu
31
tư nước ngoài được trực tiếp thuê lao động, đồng thời cần kết hợp với các giải
pháp khác để đảm bảo trật tự an ninh xã hội.
3. Đối với việc lựa chọn các đối tác nước ngoài
Cần xác định chiến lược lâu dài là dành sự ưu tiên hơn cho việc thu hút
các nhà đầu tư thuộc các Công ty xuyên quốc gia lớn, thực thụ, tiến tới xoá bỏ
tình trạng thu hút các nhà đầu tư thiếu năng lực hoặc làm trung gian môi giới
đâù tư.
Thu hút được các nhà đầu tư thuộc các Công ty xuyên quốc gia, các tập
đoàn kinh tế lớn đồng nghĩa với việc bắt tay làm ăn hợp tác được với những chủ
sở hữu mạnh, có năng lực ngăn ngừa, chống đỡ, điều chỉnh, khắc phục hiệu quả
của những biến động lớn có thể xảy ra. Một trong những điều kiện có tính chất
quyết định khả năng thu hút các Công ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là phải
có các doanh nghiệp đối tác trong nước đủ mạnh về nhiều mặt. Và để có được
các doanh nghiệp loại này, Nhà nước ta cần có sự lựa chọn, hỗ trợ, đầu tư xây
dựng tạo cho những điều kiện, cơ hội thử thách và phát triển. Chúng ta còn có sự
đầu tư thích đáng để sớm hình thành được các tập đoàn kinh tế hùng mạnh làm
trụ cột cho sự phát triển kinh tế nước nhà, vừa đủ sức vươn ra hoạt động có hiệu
quả trên thị trường quốc tế.
4. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư.
Đối với thị trường đầu tư, cần có sự nghiên cứu phân tích một cách
nghiêm túc các đối tác đầu tư lớn nhất thế giới như Mỹ, Nhật Bản, EU. Tuy
nhiên các nước này đầu tư vào ASEAN và Việt Nam rất dè dặt. Hiệp định
thương mại có hiệu lực nếu công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh ở Mỹ, Nhật,
Châu Âu, Việt Nam sẽ thu hút sức mạnh của các Công ty xuyên quốc gia của
các trung tâm kinh tế lớn này. Do để làm được điều này cần phải có sự quan tâm
phối hợp của tất cả các cơ quan nhà nước, đồng thời phải được triển khai đồng
bộ với sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương.
Thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại các bộ, ngành, tổng Công ty lớn, tại
một số cơ quan đại diện ở một số địa bàn trọng điểm nước ngoài.. để chủ động
vận động đối với từng dự án, đầu tư có tiềm năng. Ở Việt Nam để tăng cường
thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động FDI cần có sự phối hợp chặt chẽ và
thống nhất giữa các bộ ngành: Bộ ngoại giao, bộ kế hoạch và đầu tư, các bộ
ngành kinh tế và các bộ khác, đặc biệt là bộ kế hoạch và đầu tư, bộ thương mại.
II. BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC HIỆU QUẢ SỬ DỤNG FDI
1. Tạo điều kiện để thực hiện các dự án.
Tốc độ thực hiện dự án đầu tư là một yếu tố quan trọng quyết định đến
hiệu quả đầu tư, quá trình thực hiện càng nhanh thì dự án càng đi vào sản xuất
đem lại hiệu quả. Trên thực tế trong những năm vừa qua, tiến độ thực hiện các
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được nhanh chóng. Trong quá trình triển
khai thực hiện dự án, các nhà đầu tư còn gặp một số trở ngại như: thủ tục hành
chính rườm rà… Để cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài triển khai thực
hiện nhanh chóng, sớm phát huy hiệu quả, chúng ta cần thiết phải tháo gỡ những
32
trở ngại trên đây, chấm rứt tình trạng dây dưa kéo dài trong việc giải quyết các
vấn đề có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Cùng với việc cải tiến các thủ tục hành chính, hoàn thiện các văn bản
pháp quy và hướng dẫn thi hành đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chúng ta cần thiết phải cải tạo và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Cả hai yếu
tố của môi trường đầu tư nói trên có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả đầu tư
trực tiéep nước ngoài, đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như đối với cả
chúng ta.
Cần tháo gỡ những trở ngại, chấm dứt những tình trạng dây dưa kéo dài
trong việc giải quyết vấn đề FDI.
2. Quản lý Nhà nước.
Một công cụ quan trọng nhất để nhà nước thực hiện vai trò kinh tế là việc
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, ban hành chính sách và luật pháp. Để
quản lý tốt hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, từng bước đưa vào quy hoạch
thống nhất, thời gian qua cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác đầu tư đã phác
thảo chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài là hết sức quan trọng, đã vạch ra
phương hướng, mục tiêu và các biện pháp chủ yếu cho hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Thẩm định dự án đầu tư là khâu đầu tiên xác định hiệu quả của một dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Công việc này đòi hỏi phải được tiến hành nhanh
chóng và chuẩn xác, muốn có kết quả tốt yêu cầu phải có đầy đủ thông tin cần
thiếtd, những kiến thức khoa học về kinh tế kỹ thuật.
Quản lý dự án giấy phép đầu tư là công đoạn khó khăn nhất, chiếm thời
gian và công suất nhất trong toàn bộ quy trình quản lý nhà nước, nó quyết định
thành công và hiệu quả của hoạt động dự án đầu tư. Việc buông lỏng quản lý dự
án sau giấy phép đầu tư đã gây ra nhiều khó khăn trở ngại cho việc triển khai
thực hiện dự án một cách có hiệu quả, đây cũng là nguyên nhân đổ bể của một
số dự án đầu tư và một số các vi phạm đáng tiếc của nhiều xí nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, như vi phạm chế độ tuyển dụng lao động, tiền lương cho cán bộ
và công nhân…
Công tác tổ chức cán bộ là một yếu tố quyết định nhất trong công tác quản
lý nhà nước. Hiện nay đã có khoảng 5000 cán bộ hoạt động trực tiếp trong lĩnh
vực hợp tác đầu tư. Hầu hết số cán bộ nàychưa có kiến thức và kinh nghiệm đầu
tư nước ngoài, ít hiểu biết kỹ thuật ngoại ngữ kém. Nhưng họ lại được nhận một
công việc khó khăn, mới mẻ vượt quá sức của họ như được cử vào hội đồng
quản trị, làm giám đốc hoặc phó giám đốc xí nghiệp liên doanh. Họ không hiểu
rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và nghiệp vụ chuyên môn lại phải đối mặt
với các nhà kinh doanh sừng sọ lõi đời nên không trách khỏi bị thua thiệt. Hơn
nữa, nhiều cán bộ của ta trong liên doanh chỉ lo toan cho đồng lương và lợi ích
của riêng mình, thiếu quan tâm đến lợi ích của nhà nước, của người lao động và
không ít các bộ của ta bị mua chuộc, mắc bệnh tham nhũng. Tình trạng trên đây
33
là nguyên nhân chính gây thiệt thòi lớn cho chúng ta trong quá trình hợp tác đầu
tư với nước ngoài. Để đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài, chúng ta cần
đặc biệt chú trọng đến công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ.
3. Tăng khả năng tiếp nhận đầu tư.
Khả năng tiếp nhận nước ngoài của nền kinh tế nói chung và của từng
doanh nghiệp là một nhân tố quyết định hiệu quả đầu tư FDI sẽ chỉ phát huy
hiệu quả khi chúng ta có khả năng tiếp nhận tốt và ngược lại, chúng ta có thể bị
"bội thực" hoặc phụ thuộc vào bên ngoài nếu như chúng ta có ít khả năng tiếp
nhận FDI. Để tiếp nhận một cách có hiệu quả FDI, đòi hỏi phải có một tỷ lệ kỹ
thuật mà vốn nước ngoài rót vào và trong từng giai đoạn cụ thể nhưng vấn đề là
làm thế nào để huy động vốn trong nước đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư một cách
chủ động. Điều đó phụ thuộc trước hết vào tốc độ tăng trưởng kinh tế sau đó là
các biện pháp chính huy động vốn tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế. Theo ý kiến
của nhiều chuyên gia kinh tế thì mối tương quan giữa vốn đầu tư trong nước và
vốn đầu tư nước ngoài không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
nước ngoài mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. Theo
chúng tôi thì nhân tố quyết định đến sự phát triển lâu dài và ổn định nền kinh tế
phải là đầu tư trong nước, còn đầu tư nước ngoài cũng luôn là nhân tố quan
trọng.
Về năng lực tiếp nhận đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, sự yếu kém về mọi mặt của bên đối tác
Việt Nam trước các đối tác đầu tư nước ngoài hùng mạnh là một bâts lợi lớn của
chúng ta. Những khoản mất mát, thua thiệt không thể coi là học phí được nữa
mà nso là những cái giá phải trả cho sự non yếu của chúng ta. Trong các doanh
nghiệp liên doanh, phần góp của bên Việt Nam còn thấp, trung bình chỉ khoảng
25%. Phần góp vốn ít không chỉ có nghĩa là phần lợi nhuận được chia thấp, mà
quan trọng hơn về lâu dài là quyền chi phối hoạt động kinh tế của cơ sở kinh
doanh thuộc về các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để hạn chế sự chi phối của
các bên đối tác Việt Nam cần tăng tỷ lệ góp vốn trong các liene doanh với nước
ngoài, về lâu dài có thể mau lại cổ phần của bên nước ngoài.
Để tăng cường tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại
cũng như trong tương lai, ngoài sự lỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, nó cần
thiết phải giúp đỡ của nhà nước. Bằng các chính sách kinh tế vĩ mô, nhà nước
cần toạ điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh
doanh, tăng sức mạnh kinh tế. Đây là công việc mang tính ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- FDI kc098_8334.pdf