Trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhân dân luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng. Từ khi đất nước được hình thành, nhân dân là những người đặt nền móng đầu tiên, giúp đất nước có đủ kiều kiện tồn tại và được công nhận. Hình thành thôi chưa đủ mà quá trình phát triển của đất nước mới thực sự là chặng đường dài. Một đất nước hưng, thịnh, suy, yếu cốt là ở dân. Nếu cho rằng bộ máy lãnh đạo có vai trò đặc biệt quan trọng, đây là những người lãnh đạo, người khởi xướng, chính những người này đứng đầu một đất nước, đưa ra những quyết định, những chủ trương, chính sách để phát triển đất nước theo kế hoạch đã định sẵn nhưng những chủ trương chính sách đó phải hợp lòng dân, phải phù hợp với điều kiện của dân, phải giúp cho cuộc sống của dân được tốt hơn mới thực sự làm đất nước phát triển được. Từ xưa đến nay, luôn tồn tại quan điểm, dân có giàu nước mới mạnh. Người dân phải được sống ấm no, đầy đủ mới có thể dồn tâm trí vào lao động, làm việc, đưa đất nước tiến thêm những bước mới trên chặng đường vươn ra với thế giới. Hiểu được tầm quan trọng của nhân dân, các vị lãnh tụ, người lãnh đạo đất nước ta từ trước đến giờ luôn coi trọng dân, coi tư tưởng thân dân làm gốc, phải luôn gắn chặt với dân, hiểu dân mới có được lòng dân, mới tìm ra cách tốt nhất đưa đất nươc phát triển. Bởi những điều lệ, chính sách mà người đứng đầu đưa ra âu cũng chỉ là lý thuyết, việc thực hiện nó nằm hoàn toàn ở dân, định hướng có cải thiện cuộc sống của dân, giúp dân được sống yên bình mới thực sự có hiệu quả, nhân dân mới dồn hết sức đóng góp cho hoạt động của đất nước. “Chèo thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, dù việc có dễ nhưng không được dân ưng thuận cũng không thể thực hiện suôn sẻ được, nhưng việc có khó khăn, vất vả nhưng dân chúng một lòng ủng hộ, nghe theo thì với sức dân to lớn có thể vượt qua được mọi sóng to gió lớn, mọi cửa ải, đánh tan mọi kẻ thù để đi tới bến bờ tốt đẹp. Tư tưởng thân dân là dòng tư tưởng tiến bộ của Nho gia thời Xuân Thu- Chiến quốc của Trung Quốc trong đó những đại biểu lỗi lạc là Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, theo đó phải luôn quý trọng, quan tâm tới đời sống của nhân dân. Tư tưởng thân dân cũng đã ăn sâu vào tâm khảm các vị vua, bậc nghĩa sĩ của nước ta, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn , tư tưởng đó như một triết lý sâu sắc, cốt lõi bao trùm. Qua từng thời kỳ, tư tưởng thân dân ngày càng được mở rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử. Hồ Chí Minh đã vận dụng, sáng tạo và phát huy tư tưởng thân dân của các bậc tiền bối đi trước để hình thành nên tư tưởng thân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân, luôn tin tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, cả cuộc đời Người chỉ muốn làm sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng thân dân đã suyên suốt trong cả cuộc đời của Hồ Chí Minh, trong từng cách sống, cách làm việc của Người. Đến thời đại ngày nay tư tưởng đó vẫn đang được duy trì và giữ vững, càng ngày nó càng được trau dồi, hun đúc để được mở rộng hơn.Việc hiểu và vận dụng bản chất cốt lõi của tư tưởng thân dân không bao giờ là thừa, nó luôn đặc biệt quan trọng đối với mỗi thời đại, mỗi quốc gia.
21 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Hồ Chí Minh đã thực hiện và phát triển tư tuởng thân dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Phần mở đầu
Trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhân dân luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng. Từ khi đất nước được hình thành, nhân dân là những người đặt nền móng đầu tiên, giúp đất nước có đủ kiều kiện tồn tại và được công nhận. Hình thành thôi chưa đủ mà quá trình phát triển của đất nước mới thực sự là chặng đường dài. Một đất nước hưng, thịnh, suy, yếu cốt là ở dân. Nếu cho rằng bộ máy lãnh đạo có vai trò đặc biệt quan trọng, đây là những người lãnh đạo, người khởi xướng, chính những người này đứng đầu một đất nước, đưa ra những quyết định, những chủ trương, chính sách để phát triển đất nước theo kế hoạch đã định sẵn nhưng những chủ trương chính sách đó phải hợp lòng dân, phải phù hợp với điều kiện của dân, phải giúp cho cuộc sống của dân được tốt hơn mới thực sự làm đất nước phát triển được. Từ xưa đến nay, luôn tồn tại quan điểm, dân có giàu nước mới mạnh. Người dân phải được sống ấm no, đầy đủ mới có thể dồn tâm trí vào lao động, làm việc, đưa đất nước tiến thêm những bước mới trên chặng đường vươn ra với thế giới. Hiểu được tầm quan trọng của nhân dân, các vị lãnh tụ, người lãnh đạo đất nước ta từ trước đến giờ luôn coi trọng dân, coi tư tưởng thân dân làm gốc, phải luôn gắn chặt với dân, hiểu dân mới có được lòng dân, mới tìm ra cách tốt nhất đưa đất nươc phát triển. Bởi những điều lệ, chính sách mà người đứng đầu đưa ra âu cũng chỉ là lý thuyết, việc thực hiện nó nằm hoàn toàn ở dân, định hướng có cải thiện cuộc sống của dân, giúp dân được sống yên bình mới thực sự có hiệu quả, nhân dân mới dồn hết sức đóng góp cho hoạt động của đất nước. “Chèo thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, dù việc có dễ nhưng không được dân ưng thuận cũng không thể thực hiện suôn sẻ được, nhưng việc có khó khăn, vất vả nhưng dân chúng một lòng ủng hộ, nghe theo thì với sức dân to lớn có thể vượt qua được mọi sóng to gió lớn, mọi cửa ải, đánh tan mọi kẻ thù để đi tới bến bờ tốt đẹp. Tư tưởng thân dân là dòng tư tưởng tiến bộ của Nho gia thời Xuân Thu- Chiến quốc của Trung Quốc trong đó những đại biểu lỗi lạc là Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, theo đó phải luôn quý trọng, quan tâm tới đời sống của nhân dân. Tư tưởng thân dân cũng đã ăn sâu vào tâm khảm các vị vua, bậc nghĩa sĩ của nước ta, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn…, tư tưởng đó như một triết lý sâu sắc, cốt lõi bao trùm. Qua từng thời kỳ, tư tưởng thân dân ngày càng được mở rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử. Hồ Chí Minh đã vận dụng, sáng tạo và phát huy tư tưởng thân dân của các bậc tiền bối đi trước để hình thành nên tư tưởng thân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân, luôn tin tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, cả cuộc đời Người chỉ muốn làm sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng thân dân đã suyên suốt trong cả cuộc đời của Hồ Chí Minh, trong từng cách sống, cách làm việc của Người. Đến thời đại ngày nay tư tưởng đó vẫn đang được duy trì và giữ vững, càng ngày nó càng được trau dồi, hun đúc để được mở rộng hơn.Việc hiểu và vận dụng bản chất cốt lõi của tư tưởng thân dân không bao giờ là thừa, nó luôn đặc biệt quan trọng đối với mỗi thời đại, mỗi quốc gia.
B. Nội dung
1. Định nghĩa, nguồn gốc tư tuởng thân dân
Tư tưởng thân dân có nguồn gốc từ Nho giáo, bắt nguồn từ thời xưa. Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân nghe, làm được cho dân tin, biết được nhu cầu mong muốn của dân, hiểu được dân đang suy nghĩ, trăn trở gì, đang mong đợi gì ở những người lãnh đạo, quản lý, phải biết phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân, thấy cả thực tại và vạch ra được hướng đi tương lai đúng đắn cho dân phát triển. Bên cạnh đó cần phải biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh đúng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của dân. Mục tiêu là làm cho dân giàu, nước mạnh, tất cả quyền lợi đều thuộc về người dân, chính quyền từ trung ương tới địa phương đều do dân bầu ra, dân có quyền đóng góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên. Nhân dân là người chủ xã hội, cán bộ, đảng viên là đầy tớ của nhân dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô tư là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết là thân dân. Thân dân biểu hiện ở việc cán bộ, đảng viên thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi do pháp luật quy định, tức là phải trung thành với mục tiêu lý tưởng, với chính sách, pháp luật của nhà nước, phải lắng nghe và dựa vào quần chúng nơi cơ quan để xây dựng quy chế làm việc, quy chế dân chủ cơ sở…, phải luôn đề cao trách nhiệm vì dân để giải quyết nhanh chóng, kịp thời những chế độ, chính sách liên quan đến người dân, thận trọng xem xét các vấn đề liên quan đến quyền lợi của các tầng lớp nhân dân.
2. Tư tuởng thân dân của các bậc tiền bối
Dân tộc Việt Nam trong lịch sử đã từng trải qua biết bao thăng trầm, bao lần bị đặt trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, muốn tồn tại, dân ta đã không ngại hi sinh máu xương để bảo vệ quê hương, đất nước, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ thuở khai thiên lập địa. Quan điểm nhân nghĩa, thủy chung đã thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của những vị lãnh đạo. Các bậc vĩ nhân thời xưa luôn coi trọng tư tưởng nhân nghĩa, bao trùm lên cuộc đời, ảnh hưởng tới suy nghĩ và hành động của họ. Phải kể đến trước hết là Nguyễn Trãi- một lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc, với ông nhân nghĩa là thương dân, vì dân, an dân, nhân nghĩa là sự khoan dung, độ lượng, là lý tưởng xây đựng đất nước thái bình. Nhân nghĩa với Nguyễn Trãi là một tư tưởng, là một trong những quan điểm nền tảng trong hệ thống tư tưởng của ông, tư tưởng đó được nhắc đến trong hầu hết các tác phẩm ông viết. Tuy rằng tư tưởng của Nguyễn Trãi có kế thừa tư tưởng của Khổng- Mạnh nhưng vẫn mang ý nghĩa tích cực, mở rộng hơn. Nhân nghĩa trong quan điểm của Nguyễn Trãi được thể hiện “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, “ dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, trước hết phải gắn chặt với vì dân và an dân. Nguyễn Trãi coi an dân là mục đích của nhân nghĩa và trự bạo là đối tượng của nhân nghĩa, nhân nghĩa là phải đấu tranh cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển, nhờ có nhân nghĩa mà “ càn khôn đã bĩ rồi lại thái”. An dân là sự đảm bảo cho dân có được một cuộc sống yên bình, không được nhũng nhiễu phiền hà dân, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Thêm nữa, trong tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi còn chưa đựng tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. Ông luôn nhận thức được lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là ở dân, chính vì vậy nên khi làm quan được hương bổng lộc ông đã nghĩ ngay đến nhân dân. Trong suốt cuộc đời Nguyễn Trãi luôn gần gũi với nhân dân, hòa mình với nhân dân, ông hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy được vai trò, sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sự nghiệp phát triển và bảo vệ đất nước. Nguyễn Trãi còn tiến xe hơn khi ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền, bên dưới không còn tiếng giận oán sầu. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, cuộc sống của những người dân luôn là nguồn cảm hứng lớn cho Nguyễn Trãi, vốn rất xa lạ với văn chương bác học nhưng đã được Nguyễn Trãi đưa vào thơ Nôm của mình hết sức tự nhiên. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao những đặc điểm thanh điệu tất cả những khả năng phong phú ấy của ngôn ngữ dân gian đã được khai thác một cách tài tình, để cho hình tượng thơ có nhiều màu sắc dân giã và lời thơ có nhiều âm điệu phong phú qua đó đã làm phong phú cho kho tàng văn học dân tộc và cho chính hồn thơ của mình. Là sáng tác nghệ thuật của nhân dân, tác phẩm văn học dân gian phản ánh và biểu hiện đời sống tình cảm, thế giới tinh thần của nhân dân, đó là toàn bộ đời sống sinh hoạt, lao động và tinh thần của họ. Nguyễn Trãi luôn có tư tưởng thân dân, yêu thương nhân dân hết mực nên những vần thơ của ông rất gần gũi nhân dân, ông đã phần nào phát hiện được mối quan hệ giàu giá trị nhân văn chủ nghĩa thường chỉ xuất hiện trong tục ngữ, ca dao: mối quan hệ giữa thiên nhiên và đời sống lao động sản xuất của con người, mọi nỗi khổ cực, niềm khao khát, mong mỏi hạnh phúc của những người dân cơ cực đều được Nguyễn Trãi truyền vào trong tác phẩm của mình. Tư tưởng của Nguyễn Trãi có phạm vi rộng lớn, đạt tới mức độ khái quát, có ảnh hưởng đến tư tưởng của những người đi sau.
Từ trước đến nay, những áng văn thư lịch sử nổi tiếng luôn nhắc nhở chính quyền phải quan tâm, đề cao vai trò của nhân dân. Năm 1010 khi chuyển dời kinh đô từ Hoa Lư về Đại La, Lý Công Uẩn đã viết “Chiếu dời đô” trong đó có ghi “Ngày xưa nhà Thương đến Bành Canh là 5 lần dời đo, nhà Chu đến Thành Vương là 3 lần dời đô, há phải là các vị vua thời tam đại ấy tự dời đô theo ý riêng đâu, mà là mưu chọn chỗ ở trung tâm, giữ mối giềng muôn đời cho con cháu, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ thích hợp thì dời đổi. Bởi thế ngôi truyền dài lâu, xã tắc hưng thịnh…” Nhà vua làm điều gì, nhất là thay đổi có ảnh hưởng tới tương lai của dân tộc, của nhân dân đều phải cân nhắc chín chắn và quyết định thay đổi vì lợi ích chung của toàn dân. Thời nhà Trần, Trần Quốc Tuấn đã trông cậy vào sức mạnh của toàn dân mà thắng được giặc Nguyên, tư tưởng của ông đã được cô đọng lại “Dựa vào sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”. Trước thế mạnh của quân Nguyên mà gót chân của đạo quân thiện chiến này từng đạp đổ thành trì bao nhiêu nước từ Á sang Âu, Trần Quốc Tuấn đã tự tin vào tài thao lược của tướng sĩ nhà Nam và dựa vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc để ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông. Trước một quyết định quan trọng đến vận mệnh dân tộc, nhà Vua cùng các cấp lãnh đạo chẳng tự ý định đoạt mà triệu tập Hội nghị Diên Hồng và Hội nghị Bình Than hỏi ý kiến muôn dân từ bậc bô lão đến người niên thiếu để thống nhất ý chí toàn dân. Cụ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nói:
“Cổ lai quốc dĩ dân vi bản
Đắc quốc ưng tri tại đắc dân”
(Từ xưa đến nay, nước luôn lấy dân làm gốc
Được nước nên biết là nhờ được lòng dân)
Một trong những hình ảnh thể hiện sự thân dân rõ nhất trong thời xưa đó là việc vua đi cày ruộng, tham gia lễ tịch điền cùng với người nông dân. Nước ta là nước nông nghiệp, vua đã biết chăm lo đến nghề nông thật là nên thay. Hơn nữa, như người xưa đã nói hành động có công hiệu hơn ngàn lời nói, chẳng thế mà kỉ cương phép nước giữ vững, đất nước vững vàng, kinh tế cực phát triển cũng nhờ công lớn lắm của các vua thời trước. Lễ tịch điền đầu tiên được tiến hành dưới thời vua Lê Đại Hành. Tương truyền vào năm 987, khi Lê Đại Hành đích thân xuống ruộng cày đã đào được một hũ vàng. Năm 988, vua cày ở Bàn Hải lại được một hũ bạc, vì vậy hai thửa ruộng trên được đặt tên là "Kim ngân điền". Sau đó đến thời Lý - Trần, các lễ này được tổ chức long trọng hơn và là một trong những ngày hội chính của đất nước vào mùa xuân. Vào thời Lý, Vua Lý Thái Tông là người rất chăm lo cho nông nghiệp nước nhà, ông đã nhiều lần tự mình xuống cày. Sử cũ có ghi rõ, ngày 14 tháng 10 năm 1030(Canh Ngọ), vua đích thân ra ruộng ở Điều Lộ xem gặt; ngày 1 tháng 4 năm 1032(Nhâm Thân) vua đi cày tịch điền ở Đỗ Động Giang, hôm ấy, có nhà nông dâng Vua một cây lúa 9 bông; tháng 3 năm 1042 (Nhâm Ngọ), vua đi cày ruộng tịch điền ở Khả Lâm...v..v. Sách đại việt sử kí toàn thư còn ghi lại một điển tích như thế này: " Mùa xuân tháng 2 năm Mậu Dần 1038, Vua ngự ra Bố Hải cày ruộng tịch điền. Vua sai Hữu Ti dọn cỏ đắp đàn rồi thân tế Thần Nông, tế xong, vua tự cầm cày để muốn làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rặng: - Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế? Vua nói “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo? Nói xong vua đẩy cày ba lần rồi thôi. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: “Thái Tông khôi phục lễ cổ, tự mình cày ruộng tịch điền để nêu gương cho thiên hạ, trên thì để cúng tôn miếu, dưới thì để nuôi muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến của giàu dân đông”. Đến đời Trần, do bận việc giữ nước, chống ngoại bang nên lễ cày tịch điền không hưng thịnh như trước. Tuy nhiên, khi có điều kiện, các vua vẫn đích thân điều hành lễ này. Các triều đại phong kiến Việt Nam trong lịch sử đều lấy dân làm gốc trong việc ban hành các chủ trương, chính sách từ kinh tế, xã hội, văn hóa, luật pháp đến an ninh, quốc phòng, ngoại giao… Triều Khúc Thừa Dụ có chính sách “khoan, giản, an, lạc”, triều Lý có chính sách “ngụ binh ư nông”, triều Trần có “khoan, thư sức dân”, triều Lê quan niệm “dân như nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền”. Như triều đại Lê Lợi lập nên vẫn là một trong những triều đại có tiếng tăm lừng lẫy, các vua Lê còn làm được nhiều việc hơn thế, vua Lê Thánh Tông soạn thảo bộ luật Hồng Đức, các vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị trí con người trong tổng thể các mối quan hệ. Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện sâu sắc tư tưởng “lấy dân làm gốc”. “Trong kinh thành và phường ngõ, làng xóm có kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở đường sá, chùa quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà chawmc sóc, cơm cháo, thuốc men cốt sao cứu sống họ, nếu không may họ chết phải trình lên quan trên và tổ chức chôn cất, không được để lộ thi hài, nếu phạm tội này thì quan làng xã bị tội hay bãi chức”. Thương nước tức là thương dân, đối với văn hóa truyền thống của Việt Nam, lòng thương dân của nhà vua xuất phát từ đức thương người mà thương người thì trước hết những nhà lãnh đạo phải sống trọn đạo làm người, phải đối nhân xử thế, tu thân tề gia trước khi trị quốc, bình thiên hạ.
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử Việt Nam có những bước chuyển đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. chế độ phong kiến Việt Nam cùng hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc chống ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, nhiều nhà yêu nước tiêu biểu, từ Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đến Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh… đã thực hiện một bước chuyển tư tưởng chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn. Đặng Huy Trứ đã đề xuất những tư tưởng canh tân đất nước. Trong tư tưởng của ông, quan niệm về dân là một nét mới nổi bật trong tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Ông coi “dân là gốc của nước, là chủ của thần”, “khí mạnh của nước là lấy dân làm gốc. Bồi bổ cái gốc đó mới là thầy thuốc giỏi”. Các nhà tư tưởng như Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch… đã nắm bắt được xu thế đó và bước đầu tạo ra một bước chuyển trong tư tưởng chính trị, từ tư tưởng quân chủ sang tư tưởng dân chủ, từ vương quyền sang dân quyền. Về mục đích Cách mạng, các nhà tư tưởng đều thống nhất mục đích là cứu nước, cứu dân, giành độc lập dân tộc. Phan Bội Châu viết “lấy việc cứu quốc làm chủ nghĩa, cho nên muốn cho nước ta độc lập; lại lấy việc cứu dân làm chủ nghĩa, cho nên không muốn ngó thấy dân ta phải lầm than”. Về phương pháp Cách mạng theo Phan Châu Trinh bạo động là chết bởi nhân dân không có chỗ nương thân, khong có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu… quyết không thể sống nổi trong cái thế giới này, lại còn chống cự được với ai nữa. Ông chủ trương sử dụng phương pháp đấu tranh hòa bình không gây ra tổn thất về tính mạng và vật chất của nhân dân, làm cho nhân dân thức tỉnh, vươn lên làm cách mạng. Cuối thế kỷ XIX, trong tư tưởng canh tân, Đặng Huy Trứ coi dân là gốc của nước, là chủ của thần, khí mạnh của nước là lấy dân làm gốc. Tư tưởng này là một trong những cơ sở tiền đề giúp Phan Bội Châu phát triển quan điểm: dân là chủ nước, nước là của dân. Ông cho rằng vua phải lấy dân làm trời, dân chính là trời của kẻ đứng đầu cai trị nước, một nước có ba điều quan trọng là nhân dân, đất đai, chủ quyền, trong đó nhân dân đứng thứ nhất. Phan Bội Châu nhấn mạnh: “dân ta là chủ nước non”, “ nước ta hẳn là gia tài tổ nghiệp của dân ta rồi, bỏ mất nó là do dân ta, thì thu phục lại nó tất cũng phải do dân ta làm” và “nước được cường thịnh là nhờ có nhân dân”. Tương tự, Nguyễn An Ninh cũng đã khẳng định “chính nhân dân tạo lập nhà vua, và không phải vua lập ra dân, trên mảnh đất An Nam này dân là vua chứ không phải người ngồi trên ngai vàng”. Quan điểm dân là chủ nước, nước là nước của dân là một bước chuyển tư tưởng căn bản từ quân chủ sang dân chủ, các nhà tư tưởng chủ trương: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Theo Phan Châu Trinh, khai dân trí là phải bỏ lối học tầm chương trích cú, thơ văn phù phiếm của người xưa, phải mở trường dạy chữ quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. Ông viết “ ước học hàh mở cho xứng đáng, đừng vẽ hình, vẽ dạng cho qua; công thương, kỹ nghệ chuyên khoa; trí tri, cách vật cho ta theo cùng”. Để mở mang dân trí, Phan Bội Châu cho rằng phải phát triển giáo dục, bởi giáo dục là gốc rễ để xây dựng nền chnhs trị. Chấn dân khí là làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, giác ngộ được quyền lợi của mình. Hậu dân sinh tức là phải làm cho mọi người biết phát triển kinh tế, mở mang ngành nghề, làm cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Phan Bội Châu cho rằng phải xóa bỏ chính thể quân chủ, xây dựng chính thể dân chủ cộng hòa gồm có ba việc do dân làm chủ, quyền lực ở nơi dân và được thực hiện thông qua các đại biểu, mọi việc do dân định liệu. Ông viết “Bao nhiêu việc đều do công chúng quyết định. Phàm nhân dân nước ta không cứ là sang hè, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử”, Phan Bội Châu coi cái gốc tạo nên họa phúc của nhân dân chính là ở nền chính trị.
3. Hồ Chí Minh đã thực hiện và phát triển tư tuởng thân dân
Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân, không chỉ dừng lại ở đó, Người còn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Chính vì vậy cả cuộc đời của Người chỉ có một ham muốn tột bậc là là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Theo Hồ Chí Minh: dân là gốc của nước, dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước, nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Dân như nước, cán bộ như cá, cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Người yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân. Bác đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao khi xuống cấp dưới triển khai công việc thì khệnh khạng như ông quan và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức vì vậy mà quần chúng không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, không phải vì lợi ích của quần chúng. Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Người không bao giờ đối lập vai trò người lãnh đạo với người đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ của Đảng và Nhà nước mà trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Thân dân, coi dân là gốc là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự đặt mình vào địa vị của người dân mà mình đại diện để hiểu, suy xét, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề xuất, mong muốn của họ. Có lắng nghe, thấu hiểu nguyện vọng chính đáng của dân thì đại biểu dân cử mới thực hiện tốt việc. Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì... Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Việc đặt ra chương trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền, nhiều cán bộ cũng không hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn biết cái gì, “chỉ mấy ông cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng những cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”, không ăn thua, không thấm thía, không lợi ích gì cả”. Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Theo Người: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường.
Ngay từ cuộc sống thường ngày, cách ăn ở, làm việc với dân của Bác đã thể hiện sự quan tâm, gần gũi với nhân dân. Dù ở bất kỳ cương vị nào Bác vẫn giữ trong mình nếp sống giản dị. Việc ăn, mặc, ở cũng như sinh hoạt, chi tieu hàng ngày của Bác đều hết sức tiết kiệm. Mỗi bữa Bác luôn qui định có không quá ba món ăn và thường là những món dân tộc như tương cà, cá kho… Khi đi công tác ở địa phương Bác thường dặn các đồng chí chuẩn bị nắm cơm từ nhà, thậm chí liên hoan chào mừng Ngày thành lập Đảng cũng chỉ có bát cơm, món xào, tô canh và đĩa cá. Bác nói: Ở đời ai chẳng thích ăn ngon, mặc đẹp nhưng nếu miếng ngon đó lại đánh đổi bằng sự mệt nhọc, phiền hà của người khác thì không nên. Một tuần lễ Bác nhịn ăn một bữa, không phải là để hạ mình cho khổ sở mà là để nêu một tấm gương dè xẻn gạo cho đồng bào đặng làm giảm bớt nạn đói trong nước. Trong trang phục hàng ngày của Bác có lẽ ấn tượng nhất phải kể đến đôi dép cao su và bộ quần áo ka-ki, đôi dép được Bác dùng hơn 20 năm đến khi mòn gót phải lấy một miếng cao su khác vá vào, các qui hay bị tuột phải đóng đinh giữ, còn bộ quần áo ka-ki Bác mặc đến khi bạc màu, sờn cổ áo. Những người giúp việc xin Bác thay bộ quần áo mới thì Bác nói: “Bác mặc như thế phù hợp với hoàn cảnh của dân, của nước, không cần phải thay”. Nơi ở của Bác cũng hết sức giản dị, những nơi ở từ Pác Bó đến Phủ Chủ tịch là một phần trong cuộc sống đời thường của Bác. Ngôi nhà vừa là nơi Bác ở, làm việc, tiếp khách, đồ dùng trong phòng rất giản dị, tiện lợi. Bác không muốn sống xa cách cuộc sống của nhân dân.
Bác sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nhưng là nhà ngo có nguồn gốc từ nông dân. Từ tấm bé Bác sống giữa những người nghèo khổ ột nắng hai sương ngoài đồng nên Người hiểu sâu sắc nỗi khổ của những người nông dân, việc nhà nông với Bác không có gì xa lạ. Cùng đổ mồ hôi với người nông dân mới quí hạt gạo, củ khoai, mới xót lòng khi bão lụt ập đến cướp đi thành quả lao động vất vả của người dân trên ruộng đồng. Ngay sau khi giành được chính quyền, tuy bận trăm công nghìn việc Bác vẫn dành nhiều thời gian, không chỉ nhắc nhở các địa phương đắp đê chống bão lụt mà còn trực tiếp xuống các xã để đôn đốc, kiểm tra công việc. Biết tin đê sông Hồng ở khu vực Hưng Yên, Thái Bình bị vỡ, Bác trựa tiếp xuống kiểm tra việc khắc phục hậu quả để có biện pháp kịp thời cùng chính quyền địa phương vận động giúp đỡ nhân dân vượt qua khó khăn. Khi đắp đê xong bác xuống thăm, Bác đi xem kiểm tra một lượt, nhìn chỗ giáp ranh đê mới đê cũ, Người nhắc nhở phải tăng cường gia cố mới an toàn, Bác khen đắp nhanh nhưng chưa lèn chặt, cần tăng cường thêm lực lượng để đầm thật kỹ mới bảo đảm lâu dài. Hậu quả nạn đối năm 1945 như một bóng ma ghê rợn phủ lên cuộc sống đói rách của người nông dân, càng làm không khí ảm đạm khó khăn thêm, Bác đi xuống các địa phương để đôn đốc việc cứu đó, tổ chức gia tăng sản xuất, đắp đê phòng chống thiên tai. Năm 1955, nghe tin lũ lụt lớn ở Kiến An gây thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân, Bác gọi cho đồng chí có trách nhiệm lên hỏi cụ thể. Bác rất lo lắng và rơm rớm nước mắt nhất là biết có nhiều gia đình chết người và trôi nhà cửa. Bác căn dặn phải có phương án tỉ mỉ khắc phục hậu quả thiệt hại, người chỉ thị Tỉnh ủy phải trực tiếp chỉ đạo và dặn đi dặn lại “trước hết phải lo cái ăn, nơi ở cho người bị nạn, tuyệt đối không để một người bị đói”. Cứ đến mùa nước lũ, hay kỳ hạn hán Bác thường trực tiếp xuống địa phương tham gia chống trời cùng nhân dân. Lần về công trường Đại thủy nông Bắc- Hưng- Hải, trên đường đi thấy một chị đang đẩy chiếc xe cút kít nặng nề lên dốc, Bác vội chạy đến đẩy giúp chị. Bác hòa vào không khí lao động khẩn trương của công trường như tăng thêm sức mạnh cho mọi người hăng say quên mình trong không khí vui vẻ. Lần về Hải Hưng tham gia chống hạn với nông dân, nghe tin các đồng chí cán bộ tỉnh tổ chức đón Bác long trọng, Bác phê bình ngay “Bác về là đi chống hạn chứ có phải đi chơi đâu mà đón tiếp”. Bác ăn mặc quần áo như một lão nông thực sự, Bác đi rất nhanh đến chỗ nhân dân đang đào mương, vội xắn quần tay áo xuống cùng đào đất với bà con để lại phía sau các quan cách mạng trong những bộ quần áo bảnh bao đang lúng túng hổ thẹn trước dân chúng, cuối cùng tất cả cùng ào xuống đào đất với bà con theo gương Bác. Bác không nói, không hô hào nhưng Người đã làm cuộc cách mạng cho các quan trước muôn dâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BX657.DOC