I/TỔNG QUAN VỀ HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và các phương pháp
để thực hiện quyền lực nhà nước.
Có quan điểm cho rằng hình thức nhà nước được hợp thành từ hai yếu tố là hình
thức chính thể và hình thức cấu trúc nhà nước. Bên cạnh đó, cũng có quan điểm
cho rằng, ngoài hai yếu tố trên hình thức nhà nước còn bao gồm yếutố chế độ
chính trị.
Trong đó, hình thức chính thể và hình thức cấu trúc nhà nước phản ánh cách thức
tổ chức quyền lực nhà nước còn chế độ chính trị phản ánh phương pháp thực hiện
quyền lực nhà nước.
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất và hình thức cấu trúc nhà nước liên bang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất và
hình thức cấu trúc nhà nước liên bang
I/TỔNG QUAN VỀ HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và các phương pháp
để thực hiện quyền lực nhà nước.
Có quan điểm cho rằng hình thức nhà nước được hợp thành từ hai yếu tố là hình
thức chính thể và hình thức cấu trúc nhà nước. Bên cạnh đó, cũng có quan điểm
cho rằng, ngoài hai yếu tố trên hình thức nhà nước còn bao gồm yếu tố chế độ
chính trị.
Trong đó, hình thức chính thể và hình thức cấu trúc nhà nước phản ánh cách thức
tổ chức quyền lực nhà nước còn chế độ chính trị phản ánh phương pháp thực hiện
quyền lực nhà nước.
SƠ ĐỒ HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC
II/ KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
1/ Khái niệm hình thức cấu trúc nhà nước
Hình thức cấu trúc nhà nước là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính
lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau, giữa trung
ương với địa phương.
Hình thức cấu trúc nhà nước phản ánh việc tổ chức quyền lực nhà nước theo chiều
dọc từ trung ương xuống địa phương.
Ghi chú:
Đơn vị hành chính lãnh thổ là bộ phận hợp thành lãnh thổ của nhà nước, có địa
giới hành chính riêng, có cơ quan nhà nước tương ứng được thành lập để tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước.
Việc xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước của trung ương và địa
phương là việc xác định thẩm quyền giữa chúng với nhau, các thẩm quyền này thể
hiện sự tác động giữa các cơ quan nhà nước trung ương với cơ quan nhà nước địa
phương và ngược lại.
2/ Phân loại hình thức cấu trúc nhà nước
Có hai loại hình thức cấu trúc nhà nước là nước đơn nhất và nhà nước liên bang:
a/ Cấu trúc nhà nước đơn nhất
- Là nhà nước mà lãnh thổ của nước đó được hình thành từ một lãnh thổ duy nhất,
lãnh thổ này được chia thành các đơn vị hành chính trực thuộc. Nhà nước có chủ
quyền quốc gia chung, có hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý chung cho toàn
lãnh thổ, công dân chỉ có một quốc tịch đồng thời có một hệ thống pháp luật
chung cho toàn lãnh thổ
- Các nhà nước đơn nhất tiêu biểu: Trung Quốc, việt Nam, Triều Tiên, Hàn quốc,
Nhật bản, Thái Lan, Pháp, Anh, Brunei Darussalam, Cu ba, Lào...
b/ Cấu trúc nhà nước liên bang
- Là nhà nước hợp thành từ hai hay nhiều nước thành viên. Lãnh thổ của nhà nước
liên bang bao gồm lãnh thổ của các nhà nước khác, những nhà nước này được gọi
là các chủ thể liên bang. Dấu hiệu tổ chức nhà nước của chủ thể liên bang của nhà
nước liên bang thể hiện ở chỗ mỗi chủ thể có quyền thông qua hiến pháp của
mình, tuy nhiên không phải chủ thể nào cũng có hiến pháp riêng.
- Chế độ liên bang thường được thiết lập tại một quốc gia đa sắc tộc hoặc có lãnh
thổ rộng lớn hoặc trong trường hợp cần thiết. Các liên bang thường được thành lập
trên cơ sở một một hiệp ước giữa các thành viên có chủ quyền.
- Các nhà nước liên bang tiêu biểu: Cộng hòa Ấn Độ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,
Liên bang Xô Viết, Liên bang Malaixia, Liên bang Nam Tư, Mexico, Đức...
Ví dụ: Thụy Sỹ theo chế độ cộng hòa với mô hình nhà nước liên bang. Cấu trúc
nhà nước liên bang được phân thành ba cấp như sau: chính quyền liên bang
(confederation), chính quyền bang (canton) và chính quyền xã (commune). Mọi
sửa đổi trong Hiến pháp của liên bang hay của các bang phải được thực hiện thông
qua trưng cầu dân ý. Thụy Sỹ không có Thủ tướng Chính phủ và Tổng thống là 1
trong 7 thành viên của Chính phủ được Quốc hội bầu luân phiên với nhiệm kỳ 1
năm.
Iii/ dấu hiệu nhận biết nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang
1. Nhà nước đơn nhất
+ Xét về đối tượng (dân cư & lãnh thổ)
- Lãnh thổ toàn vẹn thống nhất
- Chủ quyền quốc gia chung, chỉ có 1 chủ thể duy nhất có quyền quyết định những
vấn đề đối nội & đối ngoại của đất nước.
Ví dụ: Tại Việt Nam, Quốc Hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có quyền
quyết định những vấn đề đối nội & đối ngoại của đất nước
+ Xét về phạm vi (đối nội & đối ngoại)
+ Quốc tịch :
- Có 1 quốc tịch
+ Hệ thống cơ quan nhà nước :
- Hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý chung, thống nhất từ TW đến địa phương
Ví dụ: Sơ đồ BMNN ở Việt Nam (Phụ lục 1) thể hiện cơ cấu tổ chức của chính
quyền thống nhất theo chiều dọc từ TW xuống địa phương.
+ Hệ thống pháp luật (HTPL)
- HTPL thống nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội, thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước
Ví dụ: Tại Anh có hệ thống một chính quyền. Quốc hội có quyền tối hậu về tất cả
mọi sự việc xẩy ra trong nước Anh. Tuy Quốc hội có ủy quyền cho chính quyền
địa phương nhưng Quốc hội có thể bắt buộc các thành phố và quận hạt làm các
điều mà Quốc hội thấy thích hợp; nếu muốn quốc hội còn có thể bãi bỏ hay thay
đổi ranh giới của địa phương
Ưu điểm
- Mô hình tạo ra sự ổn định về an ninh chính trị
Nhược điểm
- Thiếu sự linh hoạt trong phát triển kinh tế => là môi trường tốt của tham nhũng
2. Nhà nước liên bang
+ Xét về đối tượng (dân cư & lãnh thổ)
- Hợp thành từ 2 hoặc nhiều nhà nước thành viên => Lãnh thổ của nhà nước liên
bang bao gồm lãnh thổ của các nhà nước thành viên
Ví dụ: Tại Liên bang Hoa Kỳ, Liên bang không được thay đổi biên giới Tiểu bang
nếu không được sự đồng ý của Tiểu bang, không được hạn chế quyền và nghĩa vụ
của công dân Tiểu bang
- Vừa có chủ quyền quốc gia của Nhà nước Liên bang vừa có chủ quyền của Nhà
nước thành viên.
Ví dụ: Tại Liên bang Hoa Kỳ:
+ Chủ quyền của Liên bang: quy định về buôn bán giữa Liên bang với nước ngoài,
hệ thống tiền tệ, tuyên bố chiến tranh, quản lý các lãnh thổ xâm chiếm..
+ Chủ quyền Tiểu bang: tổ chức các cuộc bầu cử, thành lập các cơ quan nhà nước
ở địa phương, điều chỉnh các quan hệ thương mại trong phạm vi tiểu bang
+ Thẩm quyền chung: ban hành các đạo luật và tổ chức thực hiện các đạo luật như:
đánh thuế, phát hành công trái...
+ Quốc tịch
- Có 2 quốc tịch
- Ví dụ: Tại Mỹ, công dân sinh ra chỉ có 1 quốc tịch Mỹ xét trong mối quan hệ
ngoại giao với các tiểu bang và tùy theo luật riêng của từng bang mà mỗi công dân
có quyền và nghĩa vụ riêng.
- Có 2 hệ thống cơ quan nhà nước:
+ Hệ thống chung cho toàn Liên bang: thực hiện chức năng & nhiệm vụ của Liên
bang
+ Hệ thống mỗi nước thành viên: thực hiện chức năng & nhiệm vụ của Nhà nước
thành viên
Ví dụ: Sơ đồ BMNN ở Liên bang Hoa Kỳ (Phụ lục 2) thể hiện cơ cấu tổ chức của
chính quyền thống nhất theo chiều dọc từ địa phương lên TW. Ở đây, có sự phân
quyền cho địa phương và các bang có quyền nhất định do luật pháp của các từng
bang quy định.
Hệ thống pháp luật (HTPL)
- Có 2 HTPL
+ HTPL của Nhà nước Liên bang thống nhất trên toàn lãnh thổ
+ HTPL trong từng bang: chỉ có giá trị thi hành trong phạm vi bang.
Ví dụ: Tại Mỹ, Luật của chính quyền liên bang, tại Washington D.C., áp dụng cho
tất cả người dân sống tại Mỹ. Còn luật của từng tiểu bang trong số 50 tiểu bang thì
chỉ áp dụng cho tiểu bang.
Ưu điểm
- Mô hình năng động
Nhược điểm
- Khó có sự ổn định
IV/ MỘT SỐ NHÀ NƯỚC LIÊN BANG ĐIỂN HÌNH
1/ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
a) Nguyên nhân hình thành
- Nhà nước liên bang Hoa Kỳ được hình thành từng bước từ 13 thuộc địa độc lập,
liên minh với nhau chống một kẻ thù chung. Các thuộc địa lúc đầu chỉ cùng hội
họp để chia sẻ khó khăn, sau đó do sức ép của cuộc cách mạng họ cùng nhau đóng
góp xây dựng quân đội chung. Tiếp theo, các thuộc địa đã xây dựng các điều
khoản để hình thành Hợp bang, nhưng do những vấn đề kinh tế, xã hội, đối ngoại
nảy sinh, sự ra đời của một nhà nước liên bang là cần thiết.
- Các thuộc địa liên kết với nhau thành liên bang bởi một số nguyên nhân sau:
+ Thứ nhất, họ cùng phải chống một kẻ thù chung là đế quốc Anh, quân đội Anh,
nên các thuộc địa phải liên minh về mặt quân sự để cùng nhau chiến đấu.
+ Thứ hai, các chính sách của Anh đối với các thuộc địa này là tương đối giống
nhau, họ có nhiều vấn đề chung cần giải quyết, khiến các thuộc địa có thể dễ dàng
ngồi cùng nhau bàn bạc giải quyết.
+ Thứ ba, thành phần dân cư của các thuộc địa này đều là những người gặp khó
khăn phải rời bỏ quê hương nên tinh thần tương trợ giúp đỡ nhau là một phần văn
hóa của họ.
+ Lý do cuối cùng là những lợi ích kinh tế mà một chính quyền liên bang mạnh
đem lại, đó là đồng tiền chung, thương mại giữa các bang dễ dàng và chính sách
đối ngoại thống nhất.
b / Quá trình hình thành, phát triển và tồn tại
- Quá trình hình thành liên bang Hoa Kỳ diễn ra tương đối chậm chạp, cụ thể là
kể từ khi giành độc lập năm 1776 nhưng mãi đến năm 1787 Hiến pháp Mỹ mới
được thông qua và phê chuẩn vào năm 1788) do một số nguyên nhân:
+ Thứ nhất, sau khi cách mạng thành công, nước Mỹ non trẻ phải đối đầu với một
vấn đề mang tính chất sinh tử, đó là nên hay không nên thành lập một chính quyền
Trung ương có quyền lực mạnh. Có hai quan điểm chính trị đối chọi nhau trước
vấn đề này:
* Quan điểm 1 (thuộc nhóm Anti – Federalist): nhóm này theo khuynh hướng
chống đối thể chế liên bang và muốn bảo vệ quyền lực của các chính quyền địa
phương tại mỗi đơn vị lãnh thổ cựu thuộc địa vì cho rằng việc thiết lập một chính
quyền liên bang mạnh với nhiều quyền hạn sẽ đi ngược lại với mục tiêu cuộc cách
mạng Mỹ là để giành quyền tự trị và tự do cho nhân dân. Họ lo ngại rằng một liên
bang mạnh sẽ trở nên độc đoán, tự trị và tự do của người dân bị xâm hại. Hay nói
cách khác, việc thiết lập một thể chế liên bang không khác gì việc thay thế một chế
độ thống trị độc tài hà khắc thực dân bằng một chế độ thống trị độc tài hà khắc
khác, trong đó người dân cũng vẫn sẽ phải chịu đựng những sự hạn chế quyền tự
do như lúc trước.
=> Nhóm này đưa ra những bài tham luận được đăng tải trên một số tờ báo xuất
bản tại New York do nhiều người viết nhưng cùng ký tên là “Brutus” - tên của nhà
sáng lập nên nền Cộng hòa La Mã.
* Quan điểm 2 (thuộc nhóm Federalist): nhóm này theo khuynh hướng ủng hộ
việc thiết lập chính quyền liên bang và cũng đã cho đăng tải 85 bài tham tham luận
do Alexander Hamilton, James Madison và John Jay viết và cùng sử dụng chung
một bút hiệu là “Publius. Những bài tham luận này đã giải thích sự vận hành của
bộ máy chính quyền được đề nghị trong Bản dự thảo Hiến pháp, đồng thời trình
bày và giải thích những biện pháp được đề ra để ngăn cản cũng như hóa giải nguy
cơ lạm quyền của những người được dân chúng chọn lựa để điều hành guồng máy
quốc gia khi họ hành xử quyền lực chính trị và hành chính trong guồng máy đó.
Mục đích của những bài tham luận này là nhằm kêu gọi người dân ủng hộ việc phê
chuẩn bản dự thảo Hiến pháp Liên bang Hoa Kỳ.
+ Thứ hai, điều kiện tự nhiên, kinh tế của các bang tương đối khác nhau, họ phụ
thuộc vào nhau trong thương mại, trao đổi hàng hóa, nhưng lại rất khó đồng nhất
với nhau.
+ Thứ ba, trong các bang của nước Mỹ, không có bang nào đủ mạnh để có thể dẫn
dắt hoặc thôn tính các bang khác.
- Một trong những nguyên nhân để Liên bang Hoa Kỳ tồn tại là cách thức tổ chức
quyền lực:
+ Tổ chức quyền lực theo chế độ tam quyền phân lập: quyền lập pháp thuộc về
Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về chính phủ đứng đầu là Tổng thống và quyền
tư pháp thuộc về tòa án tối cao.
Ngành Lập pháp Quốc hội Hoa kỳ gồm hai viện: Thượng viện và Hạ viện
Ngành Hành pháp gồm có: Tổng thống, Phó tổng thống và Nội các của Tổng
thống
Ngành Tư pháp gồm có: Toà án tối cao, các tòa án dưới và các tòa án đặc biệt.
+ Các cơ quan nhà nước liên bang Mỹ hoạt động trên nguyên tắc “kiểm soát và
cân bằng” nhằm không ngành nào can chiếm ảnh hưởng hay vượt quyền chính
phủ.
2/ Liên bang Xô Viết
a/ Nguyên nhân hình thành
+ Sự hình thành Liên Xô gắn liền với sự sụp đổ của Đế quốc Nga (là một nhà
nước tồn tại từ năm 1721 cho đến khi tuyên bố thành một nước cộng hòa tháng 8
năm 1917) trong Thế chiến thứ nhất và hoạt động của Đảng Cộng sản Nga
(Bolshevik) do Lenin đứng đầu.
+ Vào đầu thế kỷ XX, Đế quốc Nga là một cường quốc ở Châu Âu có tiềm lực đất
đai và dân số to lớn nhưng trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn lạc hậu xa so với
các cường quốc châu Âu khác. Xã hội ẩn chứa nhiều mâu thuẫn gay gắt không
được giải tỏa: xã hội Nga là xã hội chuyên chế độc tài của quý tộc và tư sản lớn, tự
do tư tưởng bị bóp nghẹt không làm hài lòng giới trí thức, trung lưu thành thị và
giới tư sản quý tộc nhỏ; giai cấp công nhân bị bóc lột nặng nề nhất trong số các
nước ở châu Âu. Nước Nga lại là nơi có phong trào Marxist cấp tiến mạnh nhất,
do Lenin đứng đầu với đảng Bolshevik chủ trương làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa để xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
+ Những mâu thuẫn trên trong Thế chiến thứ nhất không những không được cởi
bỏ mà cùng với những thất bại to lớn trong chiến tranh, xã hội Nga đi vào bất ổn.
Quốc khố cạn kiệt, nợ nước ngoài cao, lạm phát không kiểm soát được, dân chúng
cực khổ, chiến tranh làm phá sản hàng loạt doanh nghiệp gây thất nghiệp trầm
trọng, nạn đói lan tràn tại nông thôn, các tầng lớp nhân dân, binh lính oán ghét nhà
cầm quyền và chiến tranh, trong quân đội mâu thuẫn giữa binh lính và tầng lớp sĩ
quan quý tộc phát triển thành chống đối. Tháng 2 năm 1917 đã nổ ra Cách mạng
Tháng Hai: khởi nghĩa vũ trang tại Petrograd đã lật đổ chính phủ Nga Hoàng và
thành lập Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản với chủ trương phá bỏ chế độ độc
tài chuyên chế, tự do hóa xã hội Nga theo các tiêu chuẩn như các quốc gia châu
Âu đương thời, nhưng vẫn chủ trương theo đuổi chiến tranh bên phía Đồng Minh
Anh - Pháp đến thắng lợi cuối cùng đồng thời cũng tuyên bố đảm bảo quyền lợi
của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp xã hội khác.
+ Sau Cách mạng tháng Hai, dưới sự lãnh đạo của đảng Bolshevik đồng loạt xuất
hiện các tổ chức "hội đồng" hay Xô viết của công nhân, nông dân và binh lính để
bảo vệ quyền lợi của chính họ. Thời gian giữa hai cuộc cách mạng là khi hai chính
quyền song song tồn tại: chính quyền trung ương là của Chính phủ Lâm thời
nhưng các sắc lệnh muốn được thi hành phải có sự chấp thuận của các Xô viết của
công - nông - binh. Đảng Bolshevik kêu gọi tiến hành làm cách mạng vô sản với
khẩu hiệu "tất cả chính quyền về tay các Xô viết" và kêu gọi binh lính phản chiến
làm cách mạng "Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng". Chính phủ
Lâm thời trong thời gian tám tháng tồn tại đã bất lực trong cả nỗ lực chiến tranh và
ổn định tình hình trong nước: quân đội đang tan rã không còn tuân lệnh cấp trên,
bắt giết sỹ quan và tự động rút lui. Chính phủ Lâm thời phải dựa vào các Xô viết
huy động công nhân, binh sỹ để làm tan rã quân bảo hoàng, do đó thế lực của các
Xô viết mạnh lên rất nhiều và Chính phủ Lâm thời không thể kiềm chế được các
Xô viết nữa. Nước Nga vào đêm trước của Cách mạng tháng Mười hỗn loạn, chính
phủ không còn có thể kiểm soát được tình hình.
Ngày 25 tháng 10 năm 1917 (theo lịch Julius), tức ngày 7 tháng 11 theo lịch
Gregory, Lenin và các đảng viên Bolshevik lãnh đạo các Xô viết làm Cách mạng
tháng Mười lập chính quyền Xô viết của công, nông, binh. Chính quyền lập tức
ban hành sắc lệnh về hòa bình, sắc lệnh về ruộng đất và ra khỏi chiến tranh với các
điều kiện rất ngặt nghèo của phía Đức (Hòa ước Brest-Litovsk). Ngay sau Cách
mạng tháng Mười, nước Nga rơi vào thời kỳ nội chiến cực kỳ đẫm máu (1918-
1922). Phía cách mạng là công nhân, binh sỹ cách mạng và một bộ phận nông dân,
bên kia là các lực lượng phản cách mạng gồm bảo hoàng, thành phần trí thức,
trung lưu thành thị, sỹ quan, một bộ phận nông dân, người Cô Dắc... Phe phản
cách mạng còn nhận được sự giúp đỡ của các quốc gia châu Âu. Đặc trưng của
cuộc nội chiến là tính ác liệt không khoan nhượng. Đến cuối năm 1920 về cơ bản
các lực lượng phản cách mạng đã thất bại, chính quyền Xô viết được thành lập
trên toàn lãnh thổ còn lại của Đế quốc Nga.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng giành chính quyền và bảo vệ chính quyền Xô
Viết, nhân dân các dân tộc Xô Viết đã thiết lập Khối liên minh dân tộc trên các
lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao. Năm 1922 lãnh thổ nước Nga trước đây đã
thành lập 06 nước cộng hòa Xô Viết (Nga, Ucraina, Belaruxia, Adecbaidan,
Acmenia, Grrudia) và một số nước cộng hòa tự trị. Đây chính là tiền đề cho việc
thành lập liên bang Xô Viết
Các nước cộng hòa nhận thấy, các hiệp ước và sự liên minh chưa đủ mạnh để đáp
ứng yêu cầu xây dựng chính trị xã hội và bảo vệ tổ quốc. Sự thành lập nhà nước
liên bang cộng hòa XHCN là tất yếu khách quan của các nước cộng hòa và phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân. Việc thiết lập đó dựa trên 2 nguyên tắc: tự
nguyện, bình đẳng và hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
b) Quá trình tồn tại và phát triển
+ Liên Xô bao gồm 15 nước cộng hòa
+ Hiến pháp liên bang quy định cụ thể quyền hạn cơ bản của các cơ quan nhà
nước tối cao Liên Xô, chế độ bầu cử dân chủ, quyền tự do gia nhập và tách khỏi
liên bang, quy định các vấn đề trong lĩnh vực quốc phòng, ngoại giao, kinh tế, tài
chính.
+ Cơ quan quyền lực tối cao của Liên Xô gồm 02 viện có quyền ngang nhau: Xô
Viết liên bang và Xô viết dân tộc
c) Nguyên nhân tan rã
+ Sai lầm cơ bản, tai hại hơn cả là những người lãnh đạo, quản lý văn hoá ở Liên
Xô (cũ) thiếu ý thức văn hoá thực thụ nhưng lại nắm quyền lực tuyệt đối. Trong
suốt hơn 70 năm cầm quyền, họ đã không biết giải quyết đúng đắn quan hệ giữ
chính trị với văn hoá và trong văn hoá, mối quan hệ giữa các giai cấp, cái dân tộc,
cái nhân loại phổ biến.
+ Sau khi Lenin mất, khẩu hiệu: “Tất cả quyền lực về tay Xô Viết” của ông đã
được hiểu như một thủ thuật để giành chính quyền hơn là nền tảng tư tưởng để xây
dựng một nhà nước kiểu mới. Tuy mang danh là quốc gia của các Hội đồng (Liên
bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết), nhưng ở Liên Xô trước đây, quyền lực
của các Hội đồng chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Bộ máy chấp hành đã thâu tóm toàn
bộ quyền lực, biến Hội đồng thành cơ quan phê chuẩn một cách hình thức các
quyết định đã có sẵn từ trước. Đây cũng được xem là một trong những nguyên
nhân chủ yếu làm cho Xô Viết sụp đổ.
d) Nước Nga sau tan rã
+ Sau cuộc đảo chính ngày 19-8-1991 tình hình Liên Xô trở nên hết sức nghiêm
trọng: Uỷ ban trung ương Đảng bị giải tán, Đảng cộng sản Liên Xô bị đình chỉ
hoạt động,nhiều nước cộng hoà tuyên bố tách khỏi liên bang…Nhà nước Liên
bang Xô Viết – nhà nước liên minh của nhiều quốc gia,dân tộc trước đây đã đứng
trên bờ vực của sự sụp đổ hoàn toàn.
+ Ngày 8-12-1991, các tổng thống ba nước Nga, Ukraina, Belarus ra tuyên bố
chung: Liên bang Xô Viết không còn tồn tại nữa và quyết định thành lập một hình
thức liên minh mới gọi là Cộng đồng các quốc gia độc lập ( viết tắt là SNG ).
Ngay sau đó, chín nước cộng hoà nữa cũng tuyên bố tham gia SNG.
+ Vào những thập niên cuối cùng khi Liên Xô còn tồn tại, Liên bang Xô viết gồm
15 Các nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (SSR), thường được gọi đơn giản
là Các nước Cộng hòa Xô viết. Trong Liên bang Xô viết những nước cộng hòa Xô
viết cũng được gọi là Các nước cộng hòa liên bang. Tất cả các nước cộng hòa này
đều được xem như những nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa, ngoài ngoại lệ là
CHXHCNXV Liên bang Nga (SFSR Liên bang Nga), tất cả các nước cộng hòa
đều có những đảng cộng sản của riêng mình, những đảng cộng sản này là một
phần của Đảng Cộng sản Liên Xô. Tất cả những nước cộng hòa cũ hiện nay đã trở
thành các quốc gia độc lập, 12 quốc gia trong số 15 nước cộng hòa cũ (trừ 3 nước
Baltic) đều tham gia vào một tổ chức sau khi Liên Xô tan rã có tên là Cộng đồng
các Quốc gia Độc lập (tiếng Nga: SNG, tiếng Anh: CIS).
+ Liên bang Nga là sự hợp thành của một lượng lớn các chủ thể hành chính cấp
liên bang, tổng cộng là 83 đơn vị hợp thành (chủ thể). Tại Nga có 21 nước cộng
hòa , 46 tỉnh, 4 quốc gia ly khai, 1 tỉnh tự trị và 9 khu tự trị Ngoài các đơn vị hành
chính này còn 2 thành phố trực thuộc trung ương (Moskva và Sankt-Peterburg).
V/ MỘT SỐ HÌNH THỨC KHÁC 1/ Nhà nước Liên minh
Nhà nước liên minh là sự kết hợp tạm thời của các nhà nước với nhau nhằm thực
hiện những nhiệm vụ và mục tiêu nhất định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ và đạt
được mục đích, Nhà nước Liên minh tự giải tán hoặc chuyển thành Nhà nước Liên
bang.
Ví dụ: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ từ năm 1776-1787 là nhà nước liên minh, sau đó
đã trở thành nhà nước liên bang.
* Dấu hiệu nhận biết:
- Liên kết tạm thời giữa các nhà nước. Khi gia nhập nhà nước liên minh thì các
nước thành viên có thể hưởng nhiều quyền lợi về kinh tế, giáo dục, y tế... và cùng
nhau ký kết các hiệp ước để giữ được mối quan hệ bền vững cùng thuận lợi.
- Văn bản do nhà nước liên minh ban hành phải được các nước thành viên phê
chuẩn mới có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ của nhà nước liên minh.
Ví dụ: Sự thành lập liên minh EU, để đi đến sự thống nhất cho sự tồn tại lâu dài
thì các nước trong EU đã ký nhiều hiệp ước như: Hiệp ước Maastricht (Hiệp ước
Liên hiệp châu Âu) hay hiệp ước Amsterdam, Schengen, Nice. Thành lập liên
minh kinh tế và tiền tệ, với một đơn vị tiền tệ chung và một ngân hàng trung ương
độc lập, thành lập một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện một chính sách
đối ngoại và an ninh chung để tiến tới có chính sách phòng thủ chung, tăng cường
hợp tác về cảnh sát và luật pháp. Đồng thời cũng để duy trì sự đoàn kết trong nhà
nước liên minh thì EU phải thành lập nhiều liên minh như: Liên minh chính trị hay
Liên minh về kinh tế và tiền tệ.
Đồng thời, tất cả các công dân của các nước thành viên được quyền tự do đi lại và
cư trú trong lãnh thổ của các nước thành viên. Được quyền bầu cử và ứng cử chính
quyền địa phương và Nghị viện châu Âu tại bất kỳ nước thành viên nào mà họ
đang cư trú. Được hưởng những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử; Tư pháp
và đối nội; Chính sách xã hội và việc làm. Thực hiện một chính sách đối ngoại và
an ninh chung trên cơ sở hợp tác liên chính phủ với nguyên tắc nhất trí để vẫn bảo
đảm chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực này. Mở rộng quyền của Cộng đồng trong
một số lĩnh vực như môi trường, xã hội, nghiên cứu... Phối hợp các hoạt động tư
pháp, thực hiện chính sách chung về nhập cư, quyền cư trú và thị thực. Còn việc
thành lập Liên minh kinh tế và tiền tệ giúp cho các nước thành viên có mức lạm
phát thấp nhất; Thâm hụt ngân sách thấp. Và để duy trì sự ổn định đó đòi hỏi sự
thành lập Hội đồng bộ trưởng, Ủy ban Châu Âu, nghị viện Châu Âu, Tòa án Châu
Âu.
Nhìn về góc độ khác như chúng ta vẫn thường nhận xét đó là sự bất đồng ngôn
ngữ, kinh tế, sự phát triển của mỗi nước. Theo mình nếu không đạt được sự nhất
quán trong vấn đề này sẽ dễ xảy ra xung đột giữa các nước thành viên. Và đi đến
sự tan rã cũng là điều tất yếu. Tuy nhiên nếu các nước thành viên đều tuân thủ
những nguyên tắc của NN Liên minh thì điều này hoàn toàn có lợi và NN Liên
minh có thể tồn tại lâu dài nhưEU đã nói ở trên dù rằng để đạt được một EU như
thế là một điều không đơn giản.
2/ Lãnh thổ tự trị
Lãnh thổ tự trị là đơn vị hành chính lập ra ở một số nước để đảm bảo quyền tự trị
của các dân tộc thiểu số sống tập trung ở một số khu vực, dưới sự lãnh đạo thống
nhất của chính quyền trung ương.
Một quốc gia đơn nhất là nhà nước có một cấp chính phủ duy nhất, tập trung và
một dân tộc. Tuy nhiên quốc gia đơn nhất cũng có thể có một hoặc nhiều lãnh thổ
có chính phủ riêng. Sự khác nhau giữa một liên bang và một quốc gia đơn nhất
kiểu này là ở chỗ trong một quốc gia đơn nhất mức độ tự trị của các lãnh thổ có
chính phủ riêng tồn tại không theo mong muốn của chính phủ trung ương và có
thể bị đơn phương hủy bỏ. Trong khi một liên bang thông thường được thiết lập
bởi một hiệp ước giữa một số tiểu bang độc lập, thì tại một quốc gia đơn nhất các
lãnh thổ có chính phủ riêng thường được thiết lập thông qua sự chuyển giao quyền
lực tức là chính phủ trung ương chính thức đồng ý giao quyền tự trị cho cho một
lãnh thổ phụ thuộc hoàn toàn trước đây. Vì vậy các liên bang thường được thành
lập một cách tự nguyện từ 'cấp dưới' trong khi việc chuyển giao quyền tự trị lại
được đưa ra từ 'cấp trên'.
Liên bang trên thực tế
Sự khác biệt giữa một liên bang và một quốc gia đơn nhất thường không rõ ràng.
Một quốc gia đơn nhất có thể rất giống với liên bang về cấu trúc và chính phủ
trung ương vừa có thể có quyền về mặt lý thuyết để hủy bỏ quyền tự trị của một
lãnh thổ có chính phủ riêng nhưng về mặt chính trị lại rất khó để thực thi điều đó.
Các lãnh thổ tự trị của một số quốc gia đơn nhất thường muốn nhiều quyền tự trị
hơn ở một số liên bang. Vì lẽ đó, đôi khi có tranh cãi trong việc coi một số quốc
gia đơn nhất là liên bang trên thực tế.
Vương quốc Tây Ban Nha
Tây Ban Nha là một liên bang trên thực tế bởi vì nó trao nhiều quyền cho chính
phủ các khu tự trị hơn so với hầu hết các liên bang khác. Đối với nghị viện Tây
Ban Nha, việc bãi bỏ quyền tự trị của các vùng như Galicia, Catalonia hoặc xứ
Basque, hay đối với Chính phủ Vương quốc Anh việc đơn phương hủy bỏ cơ quan
lập pháp của xứ Wales, Bắc Ireland hoặc Scotland hầu như là một sự bất khả thi
chính trị mặc dù không có một rào cản n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 87_7485.pdf