Mở đầu: Bướu trung thất là bướu hiếm gặp, bao gồm một nhóm các tổn thương không đồng nhất. Dịch tễ
học và tỷ lệ mắc phải bướu trung thất ở người lớn thay đổi đáng kể.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh X quang của bướu trung thất.
Chất liệu và phương pháp: Phân tích loạt ca lâm sàng 202 bệnh nhân người lớn bị bướu trung thất được
điều trị tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ 2005 đến 2013. Tất cả các bệnh nhân được phẫu thuật nhằm mục
đích chẩn đoán, điều trị hoặc cả hai.
6 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 588 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Hình ảnh lâm sàng, X quang của bướu trung thất: nghiên cứu loạt ca lâm sàng của bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hô Hấp 55
HÌNH ẢNH LÂM SÀNG, X QUANG CỦA BƯỚU TRUNG THẤT:
NGHIÊN CỨU LOẠT CA LÂM SÀNG
CỦA BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH
Nguyễn Hữu Lân*, Nguyễn Huy Dũng*, Lê Tự Phương Thảo**, Nguyễn Sơn Lam*, Lê Hồng Ngọc***
TÓM TẮT
Mở đầu: Bướu trung thất là bướu hiếm gặp, bao gồm một nhóm các tổn thương không đồng nhất. Dịch tễ
học và tỷ lệ mắc phải bướu trung thất ở người lớn thay đổi đáng kể.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh X quang của bướu trung thất.
Chất liệu và phương pháp: Phân tích loạt ca lâm sàng 202 bệnh nhân người lớn bị bướu trung thất được
điều trị tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ 2005 đến 2013. Tất cả các bệnh nhân được phẫu thuật nhằm mục
đích chẩn đoán, điều trị hoặc cả hai.
Kết quả: Tổng cộng có 202 bệnh nhân bướu trung thất với tuổi trung bình là 40 ± 16 tuổi (từ 15 tuổi đến
82 tuổi) được thu dung vào nghiên cứu loạt ca lâm sàng này. Tỷ lệ nam/nữ là 87/1. Trong số 202 bệnh nhân
bướu trung thất, có 106 (52,5%) bệnh nhân bướu trung thất trước, 52 (25,7%) bệnh nhân bướu trung thất sau
và 44 (21,8%) bệnh nhân bướu trung thất giữa. Trong trung thất trước, bướu quái trưởng thành, bướu tuyến
ức lành tính thường gặp nhất, với tỷ lệ theo thứ tự là 42,6%, 17,9%. Trong trung thất sau, bướu sợi thần kinh,
bướu vỏ bao thần kinh thường gặp nhất, theo thứ tự là 55,8%, 17,3%, trong khi lao hạch bạch huyết, bướu quái
trưởng thành thường gặp nhất trong bướu trung thất giữa, lần lượt là 36,4%, 13,6%. Tỷ lệ lành tính/ác tính là
6,3/1 ở những bệnh nhân < 40 tuổi và 2,6/1 ở những bệnh nhân ≥ 40 tuổi (p < 0,02). Đau ngực, ho, sốt, khó thở,
khàn giọng, ho ra máu, sụt cân, nuốt nghẹn, theo thứ tự gặp ở 72,8%, 66,3%, 13,9%, 13,4%, 5,4%, 5%, 3%,
0,5%. 6,4% bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng. Tổn thương có bờ ngoài đa cung gặp ở 79,9%, tổn
thương bờ ngoài tròn đều gặp ở 17,3%. Tổn thương có bờ ngoài không đều lởm chởm hình tia chiếm 2%.
Kết luận: Bướu quái trưởng thành, bướu tuyến ức thường gặp trong trung thất trước, u nguồn gốc tế bào
thần kinh thường gặp ở trung thất sau, và lao hạch bạch huyết, bướu quái trưởng thành thường gặp ở trung thất
giữa. Bệnh nhân ≥ 40 tuổi, ho ra máu, khàn tiếng thường có nguy cơ ác tính cao hơn. Bướu có bờ ngoài tròn đều
gợi ý tổn thương lành tính.
Từ khóa: Bướu trung thất, trung thất trước, trung thất giữa, trung thất sau.
ABSTRACT
CLINICAL AND RADIOLOGICAL ASPECTS OF MEDIASTINAL TUMORS:
A CASE SERIES FROM PHAM NGOC THACH HOSPITAL
Nguyen Huu Lan, Nguyen Huy Dung, Le Tu Phuong Thao, Nguyen Son Lam, Le Hong Ngoc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 55 ‐ 60
Background: Mediastinal tumors are rare, comprise a heterogeneous group of lesions. Epidemiology and
incidence of mediastinal lesions in adults has changed considerably.
Objective: To describe the clinical features, radiological findings of mediastinal tumors.
Materials and Methods: An analysis of case series studies of 202 adult patients with mediastinal tumors
who were treated at Pham Ngoc Thach hospital from 2005 to 2013. All patients were submitted to surgery, either
diagnostic, therapeutic or both.
* Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch **Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. BS. Nguyễn Hữu Lân ĐT: 0913185885 Email: nguyenhuulan1965@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 56
Results: A total of 202 mediastinal tumor patients with a mean age of 40 ± 16 years (range: 15 to 82 years)
were enrolled in this case series study. Male to female ratio was 87/1. Of the 202, 106 (52.5%) presented tumors
in the anterior mediastinum, 52 (25.7%) in the posterior and, 44 (21.8%) in the middle. In the anterior
mediastinum, mature teratoma, benign thymoma were the most common tumors, respectively 42.6%, 17.9%. In
the posterior mediastinum, neurofibroma, schwannoma were the most common tumors, respectively 55.8%,
17.3%, whereas lymph node tuberculosis, mature teratoma were the most common middle mediastinum,
respectively 36.4%, 13.6%. Benignity to malignance ratio was 6.3/1 in patients < 40 years of age and 2.6/1 in
patients older (p < 0.02). Chest pain, cough, fever, dyspnea, hoarseness, hemoptysis, weight loss and dysphagia
were noted in 72.8%, 66.3%, 13.9%, 13.4%, 5.4%, 5%, 3%, 0.5% of patients, respectively. Asymptomatic was
found in 6.4%. Lobulated lesions was found in 79.9%, smooth lesions was found in 17.3%. Irregular lesions was
found in 2%.
Conclusion: Mature teratoma, thymoma are more common in the anterior mediastinum, neurogenic tumors
are more common in the posterior mediastinum and, lymph node tuberculosis, mature teratoma are more
common in the middle mediastinum. Patient characteristics such as age ≥ 40 years, hemoptysis, hoarseness are
associated with higher risk of malignancy. Smooth border suggests benignity.
Key words: Mediastinal tumors, anterior mediastinum, middle mediastinum, posterior mediastinum.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Có rất nhiều căn nguyên bệnh lý khác nhau
gây bướu trung thất. Xác định vị trí và thành
phần của bướu trung thất rất quan trọng để thu
hẹp chẩn đoán phân biệt. Các nguyên nhân phổ
biến nhất của bướu trung thất trước bao gồm:
bướu tuyến ức, bướu quái, bệnh tuyến giáp và
ung thư hạch lymphô nguyên phát. Bướu trung
thất giữa thường là các tổn thương dạng nang
bẩm sinh điển hình, bao gồm cả các nang có
nguồn gốc từ ruột và màng ngoài tim, trong khi
bướu trung thất sau thường là bướu có nguồn
gốc thần kinh. Bệnh nhân bướu trung thất có thể
từ không có triệu chứng lâm sàng đến có triệu
chứng ho, đau ngực, khó thở(2). Tỷ lệ các tổn
thương trung thất ở người lớn đã thay đổi đáng
kể trong suốt 5 thập kỷ (1952‐1991)(5). Vì vậy,
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh
giá đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học X quang và
tần suất các căn nguyên của bướu trung thất
trong số những bệnh nhân nhập viện tại bệnh
viện Phạm Ngọc Thạch.
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu phân tích
mô tả loạt ca lâm sàng 202 bệnh nhân được phẫu
thuật tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành
phố Hồ Chí Minh để chẩn đoán và/hoặc điều trị
tổn thương bướu trung thất từ năm 2005 đến
năm 2013. Tất cả các bệnh nhân đều được chụp
cắt lớp điện toán lồng ngực trước phẫu thuật.
Các yếu tố tuổi, giới tính, triệu chứng lâm sàng,
đặc điểm hình ảnh học X quang của bướu trung
thất được đưa vào phân tích thống kê. Các số
liệu sau khi thu thập sẽ được mã hóa và nhập
vào máy vi tính, sử dụng phần mềm Stata 10 để
xử lý. Chúng tôi sử dụng phép kiểm χ2 để so
sánh sự khác biệt về tỷ lệ giữa hai nhóm bệnh
nhân cho các biến định tính. Thực hiện phép
kiểm chính xác của Fisher (Fisher’s Exact Test)
nếu có trên 20% số ô trong bảng chéo có tần số
mong đợi nhỏ hơn 5. Chúng tôi sử dụng kiểm
định thống kê “Shapiro test”để xác định giả thiết
phân phối chuẩn của một biến số. Nếu biến số
có phân phối chuẩn, chúng tôi dùng số trung
bình và độ lệch chuẩn để mô tả dữ liệu; sử dụng
kiểm định t với 2 mẫu độc lập để so sánh sự
khác biệt cho các biến định lượng; nếu biến số
không có phân phối chuẩn, chúng tôi dùng số
trung vị để mô tả dữ liệu; sử dụng kiểm định
Mann‐Whitney để so sánh sự khác biệt cho các
biến định lượng. Tất cả các phương pháp kiểm
định giả thuyết được thực hiện bằng cách sử
dụng kiểm định 2 bên (two‐sided alternatives).
Ngưỡng ý nghĩa là 0,05 (p < 0,05) để chấp nhận
hay bác bỏ giả thuyết thống kê.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hô Hấp 57
KẾT QUẢ
Có 202 bệnh nhân được thu dung vào
nghiên cứu, bao gồm 94 bệnh nhân nam và 108
bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 40 ± 16 tuổi (từ
15 đến 82 tuổi). Tỷ lệ bệnh nhân nam/nữ ở nhóm
bướu trung thất lành tính là 69/91, của nhóm
bướu trung thất ác tính là 25/17 (p > 0,5). Tuổi
trung bình của bệnh nhân có bướu trung thất
lành tính là 38 ± 15 tuổi, của bệnh nhân có bướu
trung thất ác tính là 48 ± 17 tuổi (p = 0,001). Triệu
chứng thường gặp là đau ngực (72,8%), ho
(66,3%). Đặc điểm nhân khẩu học và tần suất các
triệu chứng lâm sàng chia nhóm theo loại bản
chất giải phẫu bệnh của tổn thương được trình
bày trong bảng 1.
Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu học và tần suất các
triệu chứng lâm sàng chia nhóm theo loại bản chất
giải phẫu bệnh của tổn thương
Lành tính
(n = 160)
Ác tính
(n = 42)
P -
value
Nam/Nữ (n/n) 69/91 25/17 > 0,5
Khoảng tuổi (năm) 15 to 77 16 to 82
Tuổi trung bình (năm) 38 ± 15 48 ± 17 = 0,001
Bệnh nhân ≥ 40 tuổi / <
40 tuổi (n/n)
72/88 28/14 < 0,02
Đau ngực n (%) 115 (71,9%) 32 (76,2%) > 0,6
Ho n (%) 103 (64,4%) 31 (73,8%) > 0,2
Khó thở n (%) 21 (13,1%) 6 (14,3%) > 0,8
Sốt n (%) 22 (13,8%) 6 (14,3%) > 0,9
Khàn tiếng n (%) 4 (2,5%) 7 (16,2%) < 0,002
Ho ra máu n (%) 5 (3,1%) 5 (11,9%) < 0,03
Sụt cân n (%) 5 (3,1%) 1 (2,4%) > 0,8
Nuốt nghẹn n (%) 1 (0,6%) 0 (0%)
Không triệu chứng lâm
sàng n (%)
10 (6,2%) 3 (7,1%) > 0,7
Các bướu trung thất thường nằm ở trung
thất trước (52,5%) tiếp đến là trung thất sau
(25,7%) và cuối cùng là trung thất giữa (21,8%).
Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về vị trí
(trước, giữa, sau) và bản chất lành ác của bướu
trung thất (p > 0,5). Bướu trung thất có bờ ngoài
hình đa cung thường gặp nhất (79,7%), ít gặp
hơn là bướu có bờ ngoài tròn đều (17,3%), ít gặp
nhất là bướu có bờ ngoài không đều, lởm chởm
hình tia (3%). Tỷ lệ ác tính/lành tính của bướu
trung thất có bờ ngoài không đều lởm chởm
hình tia cao hơn có ý nghĩa thống kê so với bướu
trung thất có bờ ngoài hình đa cung (p < 0,02) và
bướu trung thất có bờ ngoài tròn đều (p <
0,0001). Tỷ lệ ác tính/lành tính của bướu trung
thất có bờ ngoài hình đa cung cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với bướu trung thất có bờ
ngoài tròn đều (p < 0,03). Bướu trung thất có mật
độ đồng nhất chiếm 64,9%, trong khi bướu
trung thất có mật độ không đồng nhất, vôi hóa
chiếm tỷ lệ 35,1%. Đặc điểm vị trí, hình ảnh
bướu trung thất chia nhóm theo loại bản chất
giải phẫu bệnh của tổn thương được trình bày
trong bảng 2. Bảng 3 mô tả các loại tổn thương
mô học theo vị trí của bướu trong trung thất
(trước, giữa, sau).
Bảng 2: Đặc điểm vị trí, hình ảnh bướu trung thất
chia nhóm theo loại bản chất giải phẫu bệnh của tổn
thương
Đặc điểm vị trí, hình ảnh
bướu trung thất
Lành tính
(n = 160)
Ác tính
(n = 42)
P -
value
Bướu trung thất trước n (%) 82 (51,3%) 24 (57,1%)
> 0,5Bướu trung thất giữa n (%) 36 (22,5%) 8 (19%)
Bướu trung thất sau n (%) 42 (26,3%) 10 (23,8%)
Trung vị kích thước bướu trên
CT Scan (cm) 5,3 7 > 0,1
Trung vị kích thước bướu
đánh giá sau mổ (cm) 8 8 > 0,2
Bướu có bờ ngoài đa cung n
(%) 125 (78,1%) 36 (%)
<0,03Bướu có bờ ngoài tròn đều n (%) 33 (20,6%) 2 (4,8%)
Bướu có bờ ngoài lởm chởm
hình tia n (%) 2 (1,3%) 4 (4,8%)
Bướu có mật độ đồng nhất n
(%) 102 (63,7%) 29 (69%)
> 0,5
Bướu có mật độ không đồng
nhất, vôi hóa n (%) 58 (36,3%) 13 (31%)
Bảng 3: Các loại tổn thương mô học theo vị trí của
bướu trong trung thất (trước, giữa, sau)
Tổn thương mô học
Trung thất
trước
n (%)
giữa
n (%)
sau
n (%)
Bướu quái trưởng thành 45 6 0
Nang trung thất 14 4 3
Ung thư biểu mô tuyến ức 17 1 2
Bướu tuyến ức lành tính 19 1 0
Bướu sợi thần kinh lành tính 2 2 29
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 58
Tổn thương mô học
Trung thất
trước
n (%)
giữa
n (%)
sau
n (%)
Bướu sợi thần kinh ác tính 0 0 2
Bướu vỏ bao thần kinh lành tính 0 1 9
Bướu vỏ bao thần kinh ác tính 0 0 3
Lao hạch bạch huyết 0 15 0
Ung thư hạch bạch huyết 4 4 3
Ung thư kết hợp lao hạch bạch huyết 0 1 0
Hạch viêm mạn tính 0 4 0
Hạch Sarcoidosis 0 2 0
Bướu giáp thòng 1 0 0
Bướu quái trưởng thành + U sợi thần
kinh
0 1 0
Bướu quái chưa trưởng thành 0 0 1
Bướu tế bào mầm ác tính 1 0 0
Sarcôm mỡ 1 0 0
Bướu mạch máu 2 1 0
Bướu sợi 0 1 0
Tổng cộng 106 44 52
BÀN LUẬN
Trung thất được giới hạn phía trước bởi mặt
sau xương ức và các sụn sườn, phía sau bởi mặt
trước cột sống ngực. Phía trên là lỗ trên của lồng
ngực, nơi trung thất thông với nền cổ. Phía dưới
là cơ hoành, nơi có các thành phần đi từ lồng
ngực xuống ổ bụng và ngược lại. Hai bên là
màng phổi trung thất. Trung thất được chia
thành trung thất trước, trung thất giữa và trung
thất sau dựa trên các mốc giải phẫu thấy được
trên phim X quang lồng ngực nghiêng. Điều này
rất quan trọng trong ứng dụng chẩn đoán các
tổn thương nghi ngờ bướu trung thất. Trung
thất trước chứa tuyến ức, mỡ và hạch bạch
huyết. Trung thất giữa chứa tim, màng ngoài
tim, động mạch chủ ngang và động mạch chủ
xuống, tĩnh mạch cánh tay đầu, khí quản, phế
quản và hạch bạch huyết. Trung thất sau chứa
động mạch chủ xuống, thực quản, tĩnh mạch
đơn, ống ngực, dây thần kinh X và chuỗi hạch
giao cảm ngực và mỡ. Khả năng ác tính của
bướu trung thất bị ảnh hưởng chủ yếu bởi ba
yếu tố là tuổi bệnh nhân, vị trí bướu, sự hiện
diện hay vắng mặt của triệu chứng(2). Theo
Esposito D. và Millikan K. W., tuổi của bệnh
nhân và vị trí của bướu ảnh hưởng đến tỷ lệ ác
tính. Bệnh nhân từ 20‐40 tuổi có khả năng ác
tính cao nhất, thường gặp nhất là ung thư hạch
lymphô nguyên phát và các u tế bào mầm. 73%
bướu trung thất ở trẻ em là lành tính(3). Trong
một nghiên cứu trên 103 trường hợp bướu trung
thất ở người lớn lẫn trẻ em, Nguyễn Bá Trung và
cộng sự nhận thấy tuổi trung bình của bệnh
nhân bướu trung thất là 43,48 tuổi (từ 8 tuổi đến
76 tuổi). Lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất là từ 41
đến 50 tuổi. Đa số bướu khu trú ở trung thất
trên, trung thất trước và trung thất trước trên(4).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình
của bệnh nhân có bướu trung thất lành tính là 38
± 15 tuổi, của bệnh nhân có bướu trung thất ác
tính là 48 ± 17 tuổi (p = 0,001). Tỷ lệ bệnh nhân
lớn hơn hoặc bằng 40 tuổi có bướu trung thất
lành tính là 72% và có bướu trung thất ác tính là
28%. Trong khi tỷ lệ bệnh nhân nhỏ 40 tuổi có
bướu trung thất lành tính là 86,3% và có bướu
trung thất ác tính là 13,7% (p < 0,02). Theo
Vaziri1 M. và cộng sự, 60% bướu trung thất là ác
tính(7). Theo Duwe B.V. và cộng sự, mặc dù hơn
hai phần ba các bướu trung thất là lành tính,
bướu trung thất trước có nhiều khả năng là ác
tính(2). Theo nghiên cứu của Davis R.D. và cộng
sự thực hiện trên 400 bệnh nhân bướu trung
thất, tỷ lệ ác tính theo thứ tự là 59%, 29% và 16%
ở trung thất trước, giữa và sau(0). Theo Esposito
D. và Millikan K. W., khoảng 25‐42% bướu
trung thất là ác tính. Tỷ lệ ác tính theo vị trí lần
lượt là 59% đối với bướu trung thất trước, 29%
đối với bướu trung thất giữa, 16% đối với bướu
trung thất sau(3). Theo nghiên cứu của chúng tôi,
20,8% bướu trung thất là ác tính. Tỷ lệ ác tính
theo vị trí lần lượt là 57,1% đối với bướu trung
thất trước, 19% đối với bướu trung thất giữa,
23,8% đối với bướu trung thất sau. Không có
khác biệt có ý nghĩa thống kê về vị trí (trước,
giữa, sau) và bản chất lành tính hay ác tính của
bướu trung thất (p > 0,5).
Theo Davis R.D. và cộng sự, 85% bệnh nhân
bướu trung thất ác tính có triệu chứng lâm sàng
so với 46% bệnh nhân bướu trung thất lành tính.
Các triệu chứng thường gặp là ho (60%), đau
ngực (30%), sốt/ớn lạnh (20%), khó thở (16%)(0).
Theo Nguyễn Bá Trung và cộng sự, các triệu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hô Hấp 59
chứng thường gặp là ho (48,5%), đau ngực
(44,7%), khó thở (12,6%)(4). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, bệnh nhân không có triệu chứng lâm
sàng chiếm 6,2% trong nhóm bướu lành tính và
7,1% trong nhóm bướu ác tính. Các triệu chứng
thường gặp là đau ngực (72,8%), ho (66,3%), sốt
(13,9%), khó thở (13,4%). Theo Duwe B.V., các
triệu chứng tại chỗ thường gặp do bướu trung
thất xâm lấn là nuốt nghẹn, khàn tiếng, liệt chi,
liệt cơ hoành(2). Nghiên cứu tại Iran cho thấy tỷ
lệ các triệu chứng lâm sàng của bướu trung thất
theo thứ tứ giảm dần là khó thở (41%), ho (40%),
sụt cân 21 (20%), đau ngực (28%), sốt (14%), tràn
dịch màng phổi (12%) và không triệu chứng lâm
sàng (12%)(7). Trong nghiên cứu của chúng tôi,
triệu chứng khàn tiếng, nuốt nghẹn, theo thứ tự
gặp ở 5,4% và 0,5% bướu trung thất. Các triệu
chứng khác gồm ho ra máu (5%), sụt cân (3%).
Triệu chứng ho ra máu gặp ở 3,1% bướu trung
thất lành tính và 11,9% bướu trung thất ác tính
(p < 0,03). Triệu chứng khàn tiếng gặp ở 2,5%
bướu trung thất lành tính và 16,2% bướu trung
thất ác tính (p < 0,002), Đây có thể là hai triệu
chứng quan trọng để hướng đến chẩn đoán bản
chất lành tính hay ác tính của bướu trung thất.
Roberts J.R., Kaiser L.R. nhận thấy trong 5
thập kỷ (1952‐1991), tỷ lệ các bướu trung thất ở
người lớn ghi nhận được qua các nghiên cứu
vào năm 1952, 1963, 1972, 1987, 1991 theo thứ tự
nang trung thất (17%, 24%, 9%, 25%, 20%), u
nguồn gốc thần kinh (20%, 21%, 23%, 14%, 17%),
u tuyến ức (17%, 10%, 16%, 17%, 24%), ung thư
hạch bạch huyết (9%, 10%, 13%, 10%, 10%), u
trung mô (1%, 4%, 11%, 6%, 7%), u nội tiết (2%,
8%, 11%, 3%, 2%), những u khác (23%, 14%, 2%,
10%, 4%)(5). Sodha N.R. và DeCamp M.M. nhận
thấy trong 6 thập kỷ (1952‐2003), tỷ lệ nang
trung thất ghi nhận được qua các nghiên cứu
vào năm 1952, 1963, 1972, 1987, 1993, 1999, 2003
theo thứ tự là 20%, 24%, 9%, 25%, 18%, 4%, 13%
trong tổng số các tổn thương bướu trung thất(6).
Theo Vaziri1 M. và cộng sự, có 22 loại tổn
thương khác nhau trong 105 bệnh nhân bướu
trung thất được phẫu thuật, tỷ lệ các loại bướu
trung thất là ung thư hạch bạch huyết (31,5%),
Hodgkin (10,5%), bướu vỏ bao thần kinh
(10,5%), bướu quái (7,5%), bướu tuyến ức (7,5%),
ung thư biểu mô không biệt hóa (3,7%), bướu
giáp thòng (3,7%), nang nguồn gốc phế quản
(1,8%), ung thư biểu mô tế bào vẩy của tuyến ức
(1,8%), sarcôm tế bào hình thoi (1,8%), bướu
hạch thần kinh (1,8%), sarcôm đa dạng tế bào
(1,8%), đa u nội tiết‐thần kinh (1,8%), tăng sản
tuyến ức (1,8%), sarcôm nguồn gốc thần kinh
(0,9%), bướu mỡ (0,9%), bướu carcinoid (0,9%),
sarcôm mỡ (0,9%), sarcôm sụn (0,9%), nang
tuyến ức (0,9%), nang có nguồn gốc từ ruột
(0,9%), bướu tế bào mầm (0,9%), bệnh
Castleman ở hạch (0,9%)(7). Theo Nguyễn Bá
Trung và cộng sự, các loại bướu trung thất
thường gặp là bệnh lý tuyến ức (42,42%), ung
thư tế bào biểu mô các loại (19,19%), bướu
nguồn gốc thần kinh (9%), bướu quái (7,07%),
hạch lao (6,06%)(4). Tỷ lệ các tổn thương thường
gặp theo thứ tự giảm dần trong nghiên cứu của
chúng tôi là bướu quái trưởng thành (25,2%),
bướu sợi thần kinh lành tính (16,3%), các nang
lành tính (10,4%), ung thư tế bào biểu mô tuyến
ức (9,9%), bướu tuyến ức lành tính (9,9%), lao
hạch bạch huyết (7,4%), ung thư hạch bạch
huyết (5,4%), bướu vỏ bao thần kinh lành tính
(5%), hạch viêm mạn tính (2%), bướu vỏ bao
thần kinh ác tính (1,5%), bướu mạch máu (1,5%),
bướu sợi thần kinh ác tính (1%), hạch
Sarcoidosis (1%), bướu quái chưa trưởng thành
(0,5%), bướu giáp thòng (0,5%), sarcôm mỡ
(0,5%), bướu tế bào mầm ác tính (0,5%), bướu
sợi (0,5%), ung thư kết hợp lao hạch bạch huyết
(0,5%), bướu quái trưởng thành kết hợp u sợi
thần kinh (0,5%). Các loại bướu thường gặp
trong trung thất trước là bướu quái trưởng
thành, bướu tuyến ức lành tính với tỷ lệ lần lượt
42,5%, 17,9%. Các loại bướu thường gặp trong
trung thất sau là bướu sợi thần kinh (55,8%),
bướu vỏ bao thần kinh (17,3%), trong khi lao
hạch bạch huyết, bướu quái trưởng thành
thường gặp ở trung thất giữa theo thứ tự là
34,1%, 13,6%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 60
KẾT LUẬN
Tần suất các bướu trung thất trong nghiên
cứu của chúng tôi có thay đổi so với những
nghiên cứu đã được công bố trước đây. Lao
hạch tuy chỉ chiếm tỷ lệ 7,9% nhưng không
thấy báo cáo trong những nghiên cứu ở ngoài
nước. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ
bướu không điều trị phẫu thuật như ung thư
hạch bạch huyết thấp hơn và tỷ lệ bệnh cần
điều trị phẫu thuật như bướu quái, bướu có
nguồn gốc thần kinh, bướu tuyến ức cao hơn
so với các số liệu đã được công bố trong những
nghiên cứu trước đây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Davis RD, Newland OH, Sabiston DC (1987). Primary cysts
and neoplasms of the mediastinum: recent changes in clinical
presentation, methods of diagnosis, management and results.
Ann Thorac Surg, 44: 229‐237.
2. Duwe BV, Sterman DH, Musani AI (2005). Tumors of the
Mediastinum. Chest, 128(4): 2893‐2909.
3. Esposito D, Millikan KW (2001). Mediastinal masses. In:
Saclarides TJ, Millikan KW, Godellas CV. Surgical
oncology: An algorithmic approach, pp 652‐659, Springer‐
Verlag, New York.
4. Nguyễn Bá Trung, Phó Đức Mẫn, Đoàn Hữu Nam và Cs
(1999). Bướu trung thất: dịch tễ học – chẩn đoán và điều trị. Y
học Thành phố Hồ Chí Minh, 3(4): 390‐398.
5. Roberts JR, Kaiser LR (2008). Acquired Lesions of the
Mediastinum: Benign and Malignant. In: Fishman A.P.
Fishman’s Pulmonary Diseases and Disorders, Vol. 2, 4th
edition, pp 1583‐1614, The McGraw‐Hill Companies, Inc.,
New York.
6. Sodha N, DeCamp MM (2008). Congenital Cysts of the
Mediastinum: Bronchopulmonary Foregut Anomalies. In:
Fishman AP. Fishman’s Pulmonary Diseases and Disorders,
Vol. 2, 4th Ed., pp 1571‐1582, The McGraw‐Hill Companies,
Inc., New York.
7. Vaziri1 M, Pazooki A, Zahedi‐Shoolami L (2009). Mediastinal
Masses: Review of 105 Cases. Acta Medica Iranica. 47(4): 297‐300.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 55_6298.pdf