Mục tiêu: Đau, sưng và khít hàm là những biến chứng thường gặp sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm
dưới gây nhiều khó chịu và lo lắng cho bệnh nhân. Nghiên cứu này thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của
Dexamethasone dạng uống và dạng chích trong việc kiểm soát đau, sưng và khít hàm sau phẫu thuật răng khôn
hàm dưới.
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn. Mẫu thuận tiện gồm 60 bệnh nhân (19‐32 tuổi) có chỉ định
và nhu cầu nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm sử dụng
Dexamethasone dạng chích và nhóm sử dụng dạng uống. Đau, sưng và khít hàm được đánh giá trong 2 ngày
sau phẫu thuật. Đau được đánh giá theo chủ quan của bệnh nhân bằng phiếu đánh giá đau (thang Likert 7 điểm).
Mức độ sưng mặt được đo bằng thước dây, đo khoảng cách các điểm mốc trên mặt. Khít hàm được đánh giá
thông qua độ há miệng của bệnh nhân bằng cách dùng thước kẹp đo khoảng cách từ rìa cắn răng cửa giữa hàm
trên với rìa cắn răng cửa giữa hàm dưới
8 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 556 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Hiệu quả sử dụng dexamethasone dạng uống và dạng chích trong kiểm soát đau, sưng, khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm uống
(mm)
p
T1 -3,9 ± 6,0 -5,8 ± 5,2 0,20
T2 -3,4 ± 5,5 - 3,9 ± 5,0 0,68
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong 2
ngày sau phẫu thuật, độ há miệng ở 2 nhóm
giảm có ý nghĩa thống kệ so với thời điểm trước
phẫu thuật. Sự thay đổi độ há miệng sau phẫu
thuật so với thời điểm trước phẫu thuật vào
ngày thứ nhất là ‐3,9 ± 6,0 mm (nhóm chích) và ‐
5,8 ± 5,2 mm (nhóm uống), vào ngày thứ hai là ‐
3,4 ± 5,5 mm (nhóm chích) và ‐3,9 ± 5,0 mm
(nhóm uống). (Bảng 11, Bảng 12)
So sánh giữa 2 nhóm uống và chích với nhau
thì không có sự khác việt có ý nghĩa thống kê
(Bảng 12). Điều này tương tự với nghiên cứu của
Antonio khi sử dụng 8mg Dexamethasone(1).
So với kết quả của các nghiên cứu trên, kể cả
nghiên cứu của Laureano(6) có sử dụng
Dexamethsone với nhóm có liều lượng 4mg như
trong nghiên cứu của chúng tôi, độ há miệng
trong nghiên cứu này ít bị hạn chế hơn. Có lẽ do
chúng tôi đã dặn kỹ bệnh nhân thực hiện các
biện pháp giảm sưng sau phẫu thuật như:
chườm lạnh trong ngày đầu sau phẫu thuật và
chườm ấm vào các ngày sau đó ở vị trí ngoài má
phía bên có phẫu thuật nhổ răng khôn. Việc sử
dụng các biện pháp vật lý trị liệu như chườm
giữ vai trò quan trọng và được xem như là một
điều trị hỗ trợ rất hữu hiệu cho việc giảm sưng,
điều này đã được y văn ghi nhận và được sự
đồng ý của nhiều tác giả.
*Sử dụng liều lượng thông thường của
corticosteroid trong 3‐4 ngày không có tác động
xấu đến quá trình điều trị bệnh và chúng cũng
ức chế chức năng của tuyến thượng thận ở mức
độ nhẹ. Mức cortisol sẽ trở về giá trị bình
thường trong khoảng 5‐7 ngày. Trong nghiên
cứu này tôi sử dụng Dexamethasone với 1 liều
duy nhất (4mg) trước phẫu thuật nằm trong giới
hạn bình thường với người lớn (4‐6mg).
Không ghi nhận được tác dụng phụ nào
của thuốc chỉ có một trường hợp cảm thấy hơi
nhức đầu nhưng tác dụng phụ này có lẽ là do
tai biến khi phẫu thuật hơn là do tác dụng phụ
của thuốc.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 364
KẾT LUẬN
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đơn
đánh giá hiệu quả Dexamethasone dạng uống
và dạng chích trong kiểm soát đau, sưng và khít
hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới
trên 60 bệnh nhân. Chúng tôi rút ra được một số
kết luận như sau:
1. Hiệu quả giảm đau, giảm sưng, giảm
khít hàm của Dexamethasone giữa dạng chích
và dạng uống không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
2. Mức độ sưng mặt theo chiều ngang so
với trước phẫu thuật:
‐ Ngày thứ nhất sau phẫu thuật tăng 1,1 ±
1,2 mm (nhóm chích) và 1,5 ± 2,4 mm (nhóm
uống).
‐ Ngày thứ hai sau phẫu thuật tăng 1,6 ±
1,7 mm (nhóm chích) và 1,4 ± 1,9 mm (nhóm
uống).
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
3. Mức độ sưng mặt theo chiều dọc so với
trước phẫu thuật:
‐ Ngày thứ nhất sau phẫu thuật tăng 0,9 ±
1,4 mm (nhóm chích) và 1,7 ± 1,7 mm (nhóm
uống).
‐ Ngày thứ hai sau phẫu thuật tăng 1,8 ±
1,7 mm (nhóm chích) và 1,8 ± 2,4 mm (nhóm
uống).
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
4. Độ há miệng so với trước phẫu thuật:
‐ Ngày thứ nhất sau phẫu thuật độ há
miệng giảm 3,9 ± 6,0 mm (nhóm chích) và 5,8 ±
5,2 mm (nhóm uống).
‐ Ngày thứ hai sau phẫu thuật độ há miệng
giảm 3,4 ± 5,5 mm (nhóm chích) và 3,9 ± 5,0
mm (nhóm uống).
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của chúng tôi bước đầu thực
hiện cho thấy hiệu quả của Dexamethasone
trong kiểm soát sưng đau và khít hàm sau phẫu
thuật nhổ răng khôn hàm dưới khi so với một số
nghiên cứu sử dụng kháng viêm không steroid
tại bộ môn Phẫu Thuật Miệng của Cù hoàng
Anh(4), Nguyễn Minh Hân(10), và Nguyễn Hữu
Bảo Thi(9) trước đây. Kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy không có sự khác biệt khi sử dụng
Dexamethasone qua đường uống và đường
chích, vì vậy chúng tôi khuyến cáo nên sử dụng
Dexamethasone qua đường uống vì tính ít xâm
lấn, ít biến chứng và bệnh nhân dễ chấp nhận
hơn. Tuy nhiên do nghiên cứu thời gian nghiên
cứu ngắn, nghiên cứu thực hiện trên cỡ mẫu
nhỏ, số lượng bệnh nhân ít và chưa có nhóm đối
chứng để có thể so sánh và đưa ra kết quả có
tính ứng dụng hơn trong lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Antunes AA, Avelar RL, et al (2011). “Effect of two routes
of administration of dexamethasone on pain, edema, and
trismus in impacted lower third molar surgery”. Oral
Maxillofac Surg, 15(4): 217‐23.
2. Ata‐Ali J, Ata‐Ali F, Penarrocha‐Oltra D, Penarrocha M
(2011). “Corticosteroids use in controlling pain, swelling
and trismus after lower third molar surgery”. J Clin Exp
Dent ,3(5): 469‐475.
3. Bamgbose BO, Akinwande JA, Adeyemo WL, Ladeinde
AL, Arotiba GT, Ogunlewe MO. (2005). “Effects of co‐
administered Dexamethasone and Diclofenac potassium on
pain, swelling and trismus following third molar surgery”.
Head Face Med, 1: 11.
4. Cù Hoàng Anh, Phạm Thị Hương Loan (2004). “Hiệu quả
giảm đau của Meloxiacam và Paracetamol sau phẫu thuật
nhổ răng khôn hàm dưới lệch”. Tiểu luận tốt nghiệp bác sĩ
RHM niên khóa 1998‐2004. Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
5. Kim K, et al (2009). “The use of corticosteroids and
nonsteroid antiimflammatory medication for the
management of pain and inflammation after third molar
surgery”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod,
107: 630‐640.
6. Laureano Filho JR, Maurette PE, Allais M, Cotinho M,
Fernandes C (2008). “Clinical comparative study of the
effectiveness of two dosages of Dexamethasone to control
postoperative swelling, trismus and pain after the surgical
extraction of mandibular impacted third molars”. Med Oral
Patol Oral Cir Bucal, 13(2): 129‐32.
7. Lê Đức Lánh, Nguyễn Thị Bích Lý (2000). “Nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng tác dụng giảm đau của Nimesulide trong
phẫu thuật nhổ răng khôn dưới lệch”. Tuyển tập công trình
nghiên cứu khoa học RHM 2000: 13‐27.
8. Moore PA, Brar P, et al (2005). “Preemptive Rofecoxib and
Dexamethasone for prevention of pain and trismus
following third molar surgery”. Oral Surg Oral Med Oral
Pathol Oral Radiol Endod, 99: 1‐7.
9. Nguyễn Hữu Bảo Thi, Lê Đức Lánh (2004). “Hiệu quả đặt
ống dẫn lưu sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới”. Tiểu
luận tốt nghiệp Bác Sĩ Răng Hàm Mặt niên khóa 1998‐2004, Đại
Học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Thị Minh Hân, Lê Đức Lánh, Lê Huỳnh Thiên Ân
(2008). “Đánh giá tình trạng sưng và đau của bệnh nhân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 365
sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch”. Tiểu
luận tốt nghiệp bác sĩ Răng Hàm Mặt niên khóa 2003‐2008. Đại
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Trường Hải, Lê Huỳnh Thiên Ân (2011). “Đánh
giá hiệu quả giảm đau của Nefopam và Paracetamol sau
phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch”. Tiểu luận tốt
nghiệp Bác sĩ Răng hàm Mặt niên khóa 2005‐2011. Đại học Y
Dược TP Hồ Chí Minh.
12. Pell GJ, Gregory GJ. “Impacted mandibular third molars,
classification and modified technique for removal”. Dent
Piagn, 39(1933): 330‐338.
13. White RP, et al (2003). “Recovery After Third Molar
Surgery Clinical and Health Related Quality of Life
Outcomes”. J Oral Maxillofac Surg, 61(5): 535‐544.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 358_8993.pdf