Đặt vấn đề: Hiện nay, điều trị đa u tủy đã đạt được những bước tiến rất dài giúp cải thiện thời gian sống
và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả bước đầu của phương pháp tự ghép tế bào gốc máu
ngoại vi ở bệnh nhân đa u tủy tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP.HCM.
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả các trường hợp đa u tủy tự ghép tế
bào gốc tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học từ tháng 1/2012 đến tháng 8/2013.
7 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 512 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Hiệu quả phương pháp ghép tự thân tế bào gốc tạo máu trên bệnh nhân đa u tủy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 256
HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP GHÉP TỰ THÂN TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU
TRÊN BỆNH NHÂN ĐA U TỦY
Huỳnh Văn Mẫn*, Nguyễn Tấn Bỉnh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hiện nay, điều trị đa u tủy đã đạt được những bước tiến rất dài giúp cải thiện thời gian sống
và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả bước đầu của phương pháp tự ghép tế bào gốc máu
ngoại vi ở bệnh nhân đa u tủy tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP.HCM.
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả các trường hợp đa u tủy tự ghép tế
bào gốc tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học từ tháng 1/2012 đến tháng 8/2013.
Kết quả: Chúng tôi đã tiến hành tự ghép 20 bệnh nhân đa u tủy (nam: nữ là 1,5:1) với phác đồ điều kiện
hóa Melphalan 200 mg/m2. Các bệnh nhân này đều được điều trị tấn công với Bortezomib+Dexamethasone trước
ghép (ít nhất 4 đợt). Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 49 tuổi. Có 4 bệnh nhân được ghép tươi, không qua xử
lý (2 trường hợp viêm gan siêu vi B, 2 trường hợp nhiễm giang mai) và 2 bệnh nhân được tự ghép 2 lần. Liều tế
bào đơn nhân và tế bào CD34+ trung bình lần lượt là 8,3 x 108 tế bào/kg và 7,2 x 106 tế bào/kg. Thời gian mọc
mảnh ghép trung bình là 10 ngày. Các biến chứng thường gặp gồm : sốt giảm bạch cầu hạt, tiêu chảy, viêm niêm
mạc. Tỷ lệ đạt đáp ứng hoàn toàn sau ghép cao hơn so với trước ghép (70% so với 30%).
Kết luận: Nghiên cứu đã đạt được kết quả khả quan bước đầu và có thể áp dụng kỹ thuật tự ghép này rộng
rãi trên bệnh nhân đa u tủy.
Từ khóa: Đa u tủy, tự ghép tế bào gốc.
ABSTRACT
EFFICACY OF AUTOLOGOUS PERIPHERAL BLOOD STEM CELL TRANSPLANTATION
FOR MULTIPLE MYELOMA
Huynh Van Man, Nguyen Tan Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 256 ‐ 262
Background‐Objective: Recently, treatment of multiple myeloma (MM) achieved strong development
which improved long‐term survival and quality of life. This research aims to assess results of autologous
peripheral blood stem cell transplantation for multiple myeloma at Blood Transfusion and Hematology Hospital
(BTH).
Methods: Prospective case series study from January, 2012 to August, 2013 in Blood Transfusion and
Hematology Hospital, Ho Chi Minh City.
Results: Tweenty patients with MM who had autologous peripheral blood stem cell transplantation were
analyzed. High dose Melphalan (200 mg/m2) was used for conditioning. All patients received induction therapy
with Bortezomib+Dexamethasone before transplant (4 cycles). Patient’s median age was 49 years. Four patients
underwent unmanipulated transplantation (2 patients with HBV, 2 patients with syphilis) and 2 patients
underwent tandem transplantation. Mean number of mononuclear and CD34+ was 8.3 x 108/kg and 7.2 x
* Bộ môn huyết học‐truyền máu, Đại học Y Dược TP. HCM.
Tác giả liên lạc: Ths. BS. Huỳnh Văn Mẫn ĐT: 0975449818 Email: huynhvanman@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Huyết Học 257
106/kg. Median time for engraftment was 10 days. Febrile neutropenia, diarrhea, mucositis were the common
toxicities. The post‐transplant CR response rate was higher than pre‐transplant (70% compared with 30%)
Conclusion: Our study achieved good initial results and we can used this autologous peripheral stem cell
transplantation for multiple myeloma patients broadly.
Keywords: multiple myeloma (MM), autologous peripheral blood stem cell transplantation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đa u tủy xương là một bệnh lý ác tính với
sự tăng mạnh bất thường dòng tương bào.
Liệu pháp hóa trị chuẩn cũ ít hiệu quả đối với
bệnh lý này; ít hơn 10% bệnh nhân đạt được
đáp ứng hoàn toàn (CR) và thời gian sống
trung bình chỉ khoảng 3‐4 năm. Do đó, đến
ngày hôm nay, đa u tủy vẫn là bệnh lý chưa
điều trị khỏi hoàn toàn(2,6). Việc ứng dụng kỹ
thuật tự ghép tế bào gốc đã cải thiện đáng kể
tỷ lệ đạt đáp ứng hoàn toàn (35%), tăng thời
gian sống không bệnh trung bình (39 tháng),
và thời gian sống toàn thể (65 tháng). Do đó,
tự ghép được xem là phương pháp hiệu quả
đối với những bệnh nhân dưới 65 tuổi(1).
Trong những năm gần đây, đã có một bước
tiến mới trong điều trị bệnh đa u tủy với sự xuất
hiện Bortezomib, một thuốc ức chế protease
mới. Bortezomib đã được ứng dụng trong điều
trị bệnh đa u tủy từ nhiều năm nay tại bệnh viện
Truyền Máu Huyết Học TP.HCM. Nhằm cải
thiện tỷ lệ đáp ứng cũng như góp phần duy trì
lui bệnh tốt kéo dài cho bệnh nhân, kỹ thuật tự
ghép tế bào gốc đã được tiến hành trên bệnh
nhân đa u tủy từ năm 2011. Với nghiên cứu này,
chúng tôi muốn đánh giá hiệu quả của phương
pháp tự ghép này nhằm nâng cao hơn nữa chất
lượng điều trị đa u tủy tại bệnh viện Truyền
Máu Huyết Học PT.HCM.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả điều trị bằng tự ghép tế
bào gốc tạo máu ở bệnh nhân đa u tủy tại BV
Truyền Máu Huyết Học TPHCM từ tháng
1/2012 đến tháng 12/2013.
Mục tiêu chuyên biệt
‐ Xác định thời gian mọc mảnh ghép.
‐ Đánh giá các biến chứng xảy ra trong và
sau ghép.
‐ Đánh giá đáp ứng điều trị sau ghép.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, tiền cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân chẩn đoán đa u tủy tại bệnh viện
TMHH thỏa các tiêu chuẩn: Tuổi < 65, đạt lui
bệnh ít nhất một phần sau điều trị tấn công,
không mắc các bệnh mạn tính nặng.
Phương pháp tiến hành
Thực hiện điều trị
* Huy động, thu thập và lưu trữ TBGMNV
của bệnh nhân.
‐ Huy động tế bào gốc bằng G‐CSF 5 – 10
μg/kg/ngày, N1 – N3.
‐ Thu thập tế bào gốc bằng máy chiết tách tự
động thu thập 2 – 3 lần để đạt được:
• Số lượng tế bào đơn nhân khoảng 9 x
108/kg.
• Số lượng tế bào CD34+ khoảng 7 x 106/kg.
‐ Bảo quản tế bào gốc ở ‐1960C trong dung
dịch DMSO 5 – 10%.
* Điều kiện hóa diệt tủy trước ghép
MELPHALAN 200mg/m2 N‐2.
* Truyền tế bào gốc: Truyền tế bào gốc vào
ngày N0 sau khi rã đông.
Đánh giá kết quả điều trị
Thời gian mọc mảnh ghép
‐ Thời gian hồi phục bạch cầu được tính từ
ngày ghép đến ngày bạch cầu hạt > 0,5 x 109/L,
tối thiểu 3 ngày liên tục.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 258
‐ Thời gian hồi phục tiểu cầu được tính từ ngày
ghép đến ngày tiểu cầu > 20 x 109/L, tối thiểu 3
ngày liên tục và không cần truyền tiểu cầu.
Đánh giá đáp ứng sau ghép
Tiêu chuẩn IMWG (International Myeloma
Working Group):
Phương pháp thu thập số liệu
Phương pháp thu thập số liệu
Hồi cứu các hồ sơ bệnh án của các bệnh
nhân đa u tủy đã được tự ghép tế bào gốc tại
bệnh viện Truyền máu huyết học. Các dữ liệu
được thu thập theo phiếu thu thập số liệu.
Xử lý và phân tích số liệu bằng xác suất thống kê
‐ Sử dụng phần mềm vi tính SPSS 18 để xử
lý và phân tích số liệu.
‐ Kết quả trình bày dưới dạng bảng tần số,
biểu đồ.
‐ Kết quả xử lý thống kê: trung bình và tỷ lệ %.
KẾT QUẢ
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Từ tháng 1/ 2012 đến tháng 8/2013, chúng tôi
đã ghép trên 20 bệnh nhân. Tỷ lệ nam:nữ
khoảng 1,5:1; tuổi trung bình khoảng 49 tuổi.
Hầu hết bệnh nhân thuộc dạng đa u tủy với tăng
tiết IgG (15 bệnh nhân) và thuộc giai đoạn III
của bệnh theo Durie‐Salmon (17 bệnh nhân).
Lúc chẩn đoán, có 4/20 bệnh nhân biểu hiện suy
thận và 5/20 bệnh nhân có bướu tương bào
ngoài tủy, được phát hiện qua sinh thiết mô.
Tuy nhiên, tất cả bệnh nhân đều hồi phục chức
năng thận về bình thường và biến mất các bướu
ngoài tủy này trước khi tiến hành tự ghép. Số
bệnh nhân mắc các bệnh viêm nhiễm trước ghép
là 4/20 bệnh nhân (trong đó, 2 bệnh nhân bị
viêm gan siêu vi B, và 2 bệnh nhân mắc giang
mai). Đây là những đối tượng được chúng tôi
ưu tiên ghép tươi, không qua xử lý và bảo quản
tế bào gốc máu ngoại vi. Đa số các bệnh nhân
được điều trị tấn công với ít nhất 4 đợt
Bortezomib‐Dexamethasone trước ghép. Số
bệnh nhân đạt đáp ứng hoàn toàn sau điều trị
tấn công là 6/20 bệnh nhân (chiếm 30%).
Bảng 1: Đặc điểm chung của các bệnh nhân trong
nghiên cứu
Số bệnh nhân (n = 20)
Nam : nữ 1,5 : 1
Tuổi 49 ± 7 tuổi (40 – 62 tuổi)
Phân loại bệnh
IgG-kappa: 9 BN (45%)
IgG-lamda: 7 BN (35%)
IgA-kappa: 2 BN (10 %)
không tiết: 2 BN (10%)
U tương bào ngoài
tủy 4/20 bệnh nhân (20%)
Suy thận 5/20 bệnh nhân (25%)
Giai đoạn theo
Durie Salmon
Giai đoạn IIA: 3 BN (15%)
Giai đoạn IIIA:13 BN (65%)
Giai đoạn IIIB: 4 BN (20%)
Phân giai đoạn theo
ISS
Giai đoạn I: 6 BN (30%)
Giai đoạn II: 9 BN (45%)
Giai đoạn III: 5 BN (25%)
Bệnh lý nền kèm
theo trước ghép
Viêm gan B: 2 BN (10%)
Giang mai: 2 BN (10%)
Cao huyết áp: 2 BN (10%)
Bướu giáp: 1 BN (5%)
Lao phổi cũ: 1 BN (5%)
Bất thường nhiễm
sắc thể lúc chẩn
đoán
Không bất thường: 8 BN (40%)
Đa bội: 6 BN (30%)
Del(13q): 2 BN (10%)
Bất thường NST 14: 3 BN (15%)
t(11;14)(q13;32): 1 BN (5%)
Thời gian từ chẩn
đoán đến lúc ghép 5,6 ± 1,4 tháng (4 – 9 tháng)
Đặc điểm quá trình tự ghép:
Bảng 2: Đặc điểm quá trình tự ghép
Số đợt tự ghép 22 đợt
Tự ghép 2 lần 2/20 BN (10%)
Ghép tươi 4/20 BN (20%)
Liều tế bào đơn nhân 8,3 ± 3,8x10
8 /kg
(3 – 19,3 x 108 /kg)
Liều tế bào CD34+ 7,2 ± 2,5 x 10
6 /kg
(5,1 – 14 x 106 /kg)
Mọc mảnh ghép :
- bạch cầu hạt ≥ 0,5 x 109/L
- tiểu cầu ≥ 20 x 109/L
10,1 ± 0,9 ngày
(8 – 12 ngày)
10,2 ± 1,2 ngày
(8 – 13 ngày)
Số đơn vị hồng cầu lắng
được truyền
1,2 ± 1,1 đơn vị
(0 – 3 đơn vị)
Số tiểu cầu được truyền 7 ± 5 đơn vị (0 – 18 đơn vị)
Số ngày sử dụng G-CSF 7,2 ± 1,2 ngày (6 – 10 ngày)
Số ngày nằm viện 28,64± 7ngày (21 – 46 ngày)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Huyết Học 259
Với 20 bệnh nhân, chúng tôi đã thực hiện 22
đợt tự ghép. Trong đó, 2 bệnh nhân được tiến
hành tự ghép 2 lần. Liều tế bào đơn nhân và
CD34+ trung bình trong nghiên cứu của chúng
tôi lần lượt là 8,3 x 108 tế bào/L và 7,2 x 106 tế
bào/kg Tất cả các bệnh nhân đều mọc mảnh
ghép. Thời gian hồi phục bạch cầu hạt trung
bình (Số lượng bạch cầu hạt trung tính trên
0,5x109/L trong 3 ngày liên tiếp) là 10 ngày và
thời gian hồi phục tiểu cầu trung bình (số lượng
tiểu cầu trên 50 x109/L trong 3 ngày liên tiếp) là
10 ngày.
Tác dụng phụ xuất hiện trong quá trình ghép
Sốt giảm bạch cầu hạt, viêm niêm mạc độ II
– III, tiêu chảy độ II, và buồn nôn, nôn độ II là
các biến chứng thường xảy ra trong quá trình tự
ghép (biểu đồ 1). Tất cả bệnh nhân đều có sốt
trong giai đoạn giảm bạch cầu hạt. Số ngày sốt
trung bình là 4,3 ngày (1 – 12 ngày). Số ngày
trung bình sử dụng kháng sinh tĩnh mạch phổ
rộng là 12,4 ngày (7‐31 ngày). Có 11/20 bệnh
nhân sử dụng kháng nấm tĩnh mạch. Thời gian
trung bình sử dụng kháng nấm tĩnh mạch là 6,9
ngày (0 – 28 ngày). Một trường hợp sốc nhiễm
trùng do tác nhân Enterobacter spp. xảy ra trong
quá trình ghép. Không có bệnh nhân tử vong
trong quá trình ghép.
Biểu đồ 1 : Phân bố các độc tính liên quan đến ghép trong nghiên cứu
Đáp ứng với điều trị sau ghép
Biểu đồ 2: Đáp ứng với điều trị trước và sau ghép
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 260
Theo tiêu chuẩn của IMWG, tỷ lệ đáp ứng
toàn bộ trong nghiên cứu của chúng tôi gồm:
70% đạt đáp ứng hoàn toàn (CR, complete
response) và 30% đạt đáp ứng một phần rất tốt
(VGPR, very good partial response). So sánh
với giai đoạn sau điều trị tấn công, tỷ lệ đáp
ứng hoàn toàn sau ghép cải thiện đáng kể
(70% so với 30%) (Biểu đồ 2).
BÀN LUẬN
Đến thời điểm hiện tại, tự ghép tế bào gốc
vẫn là một phương pháp điều trị chuẩn dành
cho những bệnh nhân đa u tủy trẻ hơn 65 tuổi (4).
Điều này tạo cơ hội cho bệnh nhân tiếp xúc với
hóa trị liệu liều cao nhằm tăng khả năng đạt đáp
ứng hoàn toàn, cũng như cải thiện mức độ sâu
của đáp ứng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh
những bệnh nhân đạt được đáp ứng hoàn toàn
có thể kéo dài thời gian sống toàn bộ, cũng như
nâng cao chất lượng cuộc sống(10). Đa số bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi thuộc giai
đoạn III theo Durie‐Salmon, biểu hiện tổn
thương nhiều cơ quan của bệnh. Do đó, gánh
nặng tế bào ác tính cũng tăng hơn. Theo tác giả
Kumar, những bệnh nhân thuộc giai đoạn III
đặc biệt là IIIB có khả năng đáp ứng điều trị kém
hơn cũng như thời gian sống toàn bộ ngắn
hơn(8). Tự ghép hai lần (ghép tandem) là phương
pháp tối ưu nhất dành cho những bệnh nhân
nguy cơ cao này(3,7). Trong nghiên cứu này,
chúng tôi có 2 bệnh nhân được tự ghép hai lần,
và đều đạt được đáp ứng hoàn toàn so với đáp
ứng một phần sau điều trị tấn công.
Phác đồ điều trị tấn công cũng như thời
gian từ lúc chẩn đoán đến lúc tiến hành tự
ghép cũng là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến đáp ứng sau ghép. Mục tiêu của
điều trị tấn công nhằm giảm khối lượng tế bào
ung thư đến mức thấp nhất có thể và không
ảnh hưởng đến chất lượng tế bào gốc thu thập
được sau đó. Các bệnh nhân trong nghiên cứu
của chúng tôi đều được hóa trị liệu ít nhất 4
đợt Bortezomib + Dexamethasone. So với phác
đồ gồm các thuốc alkyl hóa, thì Bortezomib kết
hợp Dexamethasone có thể cải thiện đáp ứng
trước ghép và sau ghép một cách đáng kể (8).
Thời gian trung bình từ lúc chẩn đoán đến lúc
ghép trong nghiên cứu này là 5,2 tháng. Mặc
dù, việc tự ghép sớm (<12 tháng) và trì hoãn
(>12 tháng) vẫn còn nhiều tranh cãi(8,9), nhưng
nhiều nhà nghiên cứu đề nghị nên tiến hành tự
ghép sớm khi tổng trạng và mức đáp ứng với
bệnh còn duy trì ổn định. Chính những yếu tố
này cũng đã góp phần cho kết quả khả quan
bước đầu trong nghiên cứu.
Có 4 trường hợp ghép tươi không qua xử lý
và bảo quản tế bào gốc máu ngoại vi: 2 trường
hợp viêm gan siêu vi B, và 2 trường hợp giang
mai muộn, không triệu chứng. Các bệnh nhân
này đều được phát hiện qua tầm soát trước
ghép bằng kỹ thuật huyết thanh học, và được
khẳng định lại bằng những xét nghiệm chuyên
biệt hơn. Việc tiến hành ghép với nguồn tế bào
gốc bị nhiễm ít được báo cáo trên y văn thế giới.
Tuy nhiên, nhằm đảm bảo chất lượng và số
lượng tế bào gốc khi truyền lại vào cơ thể bệnh
nhân, thì phương pháp ghép tươi tương đối
phù hợp.Điều đáng quan tâm đó là khả năng
bùng phát trở lại của tác nhân gây bệnh khi cơ
thể bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng nề do
hóa trị liệu gây nên. Thế nhưng, không có
trường hợp nào xảy ra hiện tượng này. Vốn là
vùng dịch tể của viêm gan siêu vi B, phương
pháp ghép tươi có thể mở ra một hướng mới
trong điều trị đa u tủy ở Việt Nam.
Với liều tế bào đơn nhân trung bình và liều
tế bào CD34+ phù hợp, tất cả bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi đều mọc mảnh ghép
tốt. Thời gian mọc mảnh ghép trung bình
khoảng 10 ngày đối với cả bạch cầu hạt và tiểu
cầu, tương đồng với nhiều nghiên cứu trên thế
giới(4,5,8). Tương tự nhiều báo cáo, số lượng đơn
vị hồng cầu lắng và tiểu cầu cần truyền tương
đối ít trong nghiên cứu này. Trên thực tế, hóa trị
liệu Melphalan liều cao luôn là một vấn đề nặng
nề đối với những bệnh nhân lớn tuổi. Với thời
gian hồi phục huyết học rút ngắn lại, thời gian
giảm bạch cầu hạt không kéo dài, nhu cầu
truyền hồng cầu lắng và tiểu cầu đậm đặc ít làm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Huyết Học 261
cho phương pháp tự ghép có thể được áp dụng
rộng rãi cho nhóm bệnh nhân đặc biệt này.
Tác dụng phụ do hóa trị liệu điều kiện hóa là
một vấn đề quan trọng không kém do những
bệnh nhân đa u tủy thường lớn tuổi, khả năng
dung nạp các độc tính không cao. Sốt giảm bạch
cầu hạt, viêm niêm mạc độ II – III, tiêu chảy độ
II, và buồn nôn, nôn độ II là các biến chứng
thường gặp nhất trong nghiên cứu của chúng
tôi. Điều này tương đồng với nhiều nghiên cứu
trên thế giới (8,11). Tuy nhiên các biến chứng này
chỉ ở mức độ trung bình và cải thiện nhanh
chóng khi bạch cầu hạt hồi phục. Hầu như các
bệnh nhân trong nghiên cứu đều có sốt giảm
bạch cầu hạt trong quá trình suy tủy trong ghép,
nhưng do thời gian mọc mảnh ghép ngắn, việc
khởi động kháng sinh phổ rộng sớm khi có chỉ
định nên những nhiễm trùng này thường không
biến chứng nặng nề.
Đánh giá các đáp ứng sau ghép nhận thấy tỷ
lệ đáp ứng hoàn toàn vượt trội hơn hẳn so với
trước ghép (70% so với 30%). Mặc dù tỷ lệ này
trong nghiên cứu của chúng tôi có phần khá hơn
so với các báo cáo trên thế giới (5,8,11), nhưng do số
mẫu tương đối ít nên chúng tôi vẫn cần nhiều
đánh giá về sau để có thể kết luận chính xác vấn
đề này. Với mục tiêu bước đầu triển khai kỹ
thuật điều trị mới, chúng tôi ưu tiên lựa chọn
những bệnh nhân đạt từ đáp ứng một phần trở
lên. Có lẽ điều này cũng góp phần nào vào sự
khác biệt nói trên. Nhìn ở một góc độ rộng hơn,
cùng với những ghi nhận của các tác giả khác
trên thế giới, nghiên cứu này cũng góp phần
khẳng định thêm vai trò của tự ghép trong đa u
tủy. Việc tiến hành tự ghép trên bệnh nhân đã
đạt đáp ứng hoàn toàn sau điều trị tấn công vẫn
còn đang được tranh luận nhiều bởi lẽ tiêu
chuẩn đáp ứng hoàn toàn theo IMWG chưa hẳn
là tuyệt đối. Bằng kỹ thuật tế bào dòng chảy, tác
giả Paiva đã chứng minh được vẫn còn hiện
diện những tế bào ác tính tồn lưu ở những bệnh
nhân đã đạt đáp ứng hoàn toàn. Điều này cũng
khẳng định một điều: đa u tủy là bệnh không
thể chữa khỏi. Chính phương pháp tự ghép với
hóa trị liệu cao giúp tận diệt tối đa nhất có thể
những tế bào ác tính còn sót lại và tất nhiên sẽ
kéo dài thời gian sống và nâng cao chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này bước đầu đã khẳng định
tính khả thi của phương pháp tự ghép tế bào gốc
máu ngoại vi ở bệnh nhân đa u tủy. Kỹ thuật
này có thể áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao và
biến chứng ít. Với những kết quả khả quan đạt
được, tự ghép tế bào gốc có thể mở ra một
hướng điều trị mới tích cực hơn dành cho bệnh
lý vốn khó chữa này. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn
cần nhiều nghiên cứu nữa với quy mô rộng hơn
để có thể đánh giá được toàn diện những hiệu
quả lâu dài trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Attal M, et al (1996). A prospective, randomized trial of
autologous bone marrow transplantation and chemotherapy in
multiple myeloma. Intergroupe Francais du Myelome. N Engl J
Med, 335(2): p. 91‐97.
2. Barlogie B, et al (2004). Treatment of multiple myeloma. Blood,
103(1): p. 20‐32.
3. Bergantim R, Trigo F, Guimaraes JE (2012). Impact of
tandem autologous stem cell transplantation and response to
transplant in the outcome of multiple myeloma. Exp
Hematol Oncol, 1(1): p. 35.
4. Child JA, et al (2003). High‐dose chemotherapy with
hematopoietic stem‐cell rescue for multiple myeloma. N Engl J
Med, 348(19): p. 1875‐1883.
5. Harousseau JL, et al (2006). Bortezomib plus dexamethasone as
induction treatment prior to autologous stem cell
transplantation in patients with newly diagnosed multiple
myeloma: results of an IFM phase II study. Haematologica,
91(11): p. 1498‐1505.
6. Jagannath S, et al (2009). Extended follow‐up of a phase 2 trial of
bortezomib alone and in combination with dexamethasone for
the frontline treatment of multiple myeloma. Br J Haematol,
146(6): p. 619‐626.
7. Kumar A, et al (2009). Tandem versus single autologous
hematopoietic cell transplantation for the treatment of multiple
myeloma: a systematic review and meta‐analysis. J Natl Cancer
Inst, 101(2): p. 100‐6.
8. Kumar L, et al (2013). Autologous stem cell transplantation for
multiple myeloma: identification of prognostic factors. Clin
Lymphoma Myeloma Leuk, 13(1): p. 32‐41.
9. KumarSK, et al (2012) Early versus delayed autologous
transplantation after immunomodulatory agents‐based
induction therapy in patients with newly diagnosed multiple
myeloma. Cancer, 118(6): p. 1585‐1592.
10. Martinez‐Lopez J, et al (2011) Long‐term prognostic significance
of response in multiple myeloma after stem cell transplantation.
Blood, 118(3): p. 529‐534.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 262
11. Palumbo A, et al (2010). Melphalan 200 mg/m(2) versus
melphalan 100 mg/m(2) in newly diagnosed myeloma patients:
a prospective, multicenter phase 3 study. Blood, 115(10): p.
1873‐1879.
Ngày nhận bài báo: 18/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 256_1_9549.pdf