Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm viêm nướu kẽ răng khi sử dụng chỉ nha khoa ngâm trong
dung dịch CHX so với chỉ sử dụng chỉ nha khoa.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn, nửa miệng được thực hiện trên
120 gai nướu của 15 đối tượng sinh viên Răng Hàm Mặt thỏa tiêu chí có 4 gai nướu ở mỗi phần hàm phải và
trái được chẩn đoán từ viêm nướu trung bình trở lên. Các đối tượng được phân chia ngẫu nhiên về việc sử dụng
chỉ nha khoa (chỉ nha khoa có tay cầm, không sáp, Okamura) ngâm trong dung dịch chlorhexidine 0,12% (Kin®)
hoặc chỉ nha khoa ở mỗi phần hàm phải hoặc trái trong vòng 6 tuần. Các chỉ số mảng bám, chỉ số chảy máu nướu
khi thăm dò và chỉ số nướu được ghi nhận ở thời điểm ban đầu, sau 3 tuần và sau 6 tuần can thiệp.
7 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 484 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Hiệu quả giảm viêm nướu kẽ răng của chỉ nha khoa ngâm trong dung dịch chlorhexidine, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 332
HIỆU QUẢ GIẢM VIÊM NƯỚU KẼ RĂNG CỦA CHỈ NHA KHOA
NGÂM TRONG DUNG DỊCH CHLORHEXIDINE
Phan Toàn Khoa*, Phạm Anh Vũ Thụy*, Nguyễn Mẹo*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm viêm nướu kẽ răng khi sử dụng chỉ nha khoa ngâm trong
dung dịch CHX so với chỉ sử dụng chỉ nha khoa.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn, nửa miệng được thực hiện trên
120 gai nướu của 15 đối tượng sinh viên Răng Hàm Mặt thỏa tiêu chí có 4 gai nướu ở mỗi phần hàm phải và
trái được chẩn đoán từ viêm nướu trung bình trở lên. Các đối tượng được phân chia ngẫu nhiên về việc sử dụng
chỉ nha khoa (chỉ nha khoa có tay cầm, không sáp, Okamura) ngâm trong dung dịch chlorhexidine 0,12% (Kin®)
hoặc chỉ nha khoa ở mỗi phần hàm phải hoặc trái trong vòng 6 tuần. Các chỉ số mảng bám, chỉ số chảy máu nướu
khi thăm dò và chỉ số nướu được ghi nhận ở thời điểm ban đầu, sau 3 tuần và sau 6 tuần can thiệp.
Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hiệu quả làm giảm mảng bám của hai nhóm sau 3
tuần và 6 tuần can thiệp (p > 0,05). Nhóm chỉ nha khoa ngâm trong dung dịch chlorhexidine có hiệu quả làm
giảm chảy máu nướu và giảm viêm nướu nhiều hơn so với nhóm chỉ nha khoa. Sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê sau 3 tuần (p > 0,05) nhưng có ý nghĩa thống kê sau 6 tuần (p < 0,05).
Kết luận: Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy chỉ nha khoa ngâm trong dung dịch chlorhexidine 0,12% làm
giảm chảy máu nướu và viêm nướu kẽ răng nhiều hơn so với chỉ sử dụng chỉ nha khoa.
Từ khóa: viêm nướu, chlorhexidine, chỉ nha khoa
ABSTRACT
THE EFFECTS OF FLOSSING WITH A CHLORHEXIDINE SOLUTION
IN REDUCING INTERPROXIMAL GINGIVITIS
Phan Toan Khoa, Pham Anh Vu Thuy, Nguyen Meo
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 332 ‐ 338
Objective: The aim of this study was to evaluate the effects of reducing interdental gingivitis when using
dental floss soaked in CHX solution compared to dental floss alone.
Subjects and Methods: A six‐ week, split mouth clinical trial was conducted on 120 interdental of 15
dental students who had 4 interdental gingiva in each right and left jaw diagnosed as medium gingivitis. The
subjects were randomly assigned into two groups: group using dental floss (dental floss with handle, unwax,
Okamura) soaked in 0.12 % chlorhexidine solution (Kin ®) and group using dental floss alone. Plaque index,
gingival bleeding on probing and gingival index were recorded at the baseline, 3 weeks and 6 weeks after
intervention.
Results: There was no statistically significant difference in reducing dental plaque after 3 weeks and 6 weeks
(p > 0,05) in both groups. Group using dental floss with chlorhexidine solution reduced gingival bleeding and
gingivitis more effectively than group using dental floss alone. This difference was not statistically significant
after 3 weeks (p > 0.05), but statistically significant after 6 weeks (p < 0,05).
Conclusion: The present study indicated that using dental floss with 0.12% chlorhexidine solution reduced
more effectively bleeding and interproximal gingivitis than dental floss alone.
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: BS. Phan Toàn Khoa ĐT: 0987539287 Email: phantoankhoa@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 333
Keywords: gingivitis, chlorhexidine, dental floss
MỞ ĐẦU
Viêm nướu là một bệnh rất thường gặp
trong thực hành nha khoa lâm sàng. Theo điều
tra sức khỏe răng miệng quốc gia năm 2001,
97,5% người trên 18 tuổi trong đó 98,1% trên 45
tuổi bị viêm nướu(5).
Loại bỏ mảng bám vi khuẩn là chìa khoá
ngăn ngừa cũng như là bước đầu tiên để điều trị
viêm nướu. Chỉ nha khoa là biện pháp cơ học để
làm sạch vùng kẽ đã được sử dụng rộng rãi nhất
hiện nay. Theo báo cáo của hiệp hội nha khoa
Hoa Kỳ, khoảng 80% mảng bám răng được loại
bỏ bằng phương pháp này(13).
Chlorhexidine (CHX) cũng được chứng
minh là có hiệu quả ngăn ngừa sự hình thành
mảng bám và giảm vi khuẩn trong miệng(1,2,11).
Cho đến nay, CHX vẫn được xem là tiêu chuẩn
vàng, là chất kháng khuẩn có hiệu quả nhất
trong việc giảm mảng bám và viêm nướu(3,7).
Việc sử dụng chỉ nha khoa kết hợp với
CHX trong điều trị viêm nướu đã được thực
hiện bởi một số nhà nghiên cứu lâm sàng.
Năm 1992, Kinane và cộng sự cho thấy không
có sự khác biệt về hiệu quả giảm chảy máu
nướu của chỉ nha khoa ngâm trong CHX 0,1%
và chỉ nha khoa(10). Pauline và cộng sự (2008)
đã chứng minh dưới tác dụng của chỉ nha
khoa, CHX có thể đi sâu vào trong khe nướu,
làm tăng khả năng kháng khuẩn và giảm viêm
nướu(9). Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có nhiều
báo cáo đánh giá hiệu quả lâm sàng khi kết
hợp sử dụng chỉ nha khoa và CHX trong điều
trị viêm nướu kẽ răng.
Mục tiêu
(1) Đánh giá hiệu quả giảm mảng bám, chảy
máu nướu và viêm nướu vùng kẽ răng khi sử
dụng chỉ nha khoa ngâm trong dung dịch CHX;
(2) Đánh giá hiệu quả giảm mảng bám, chảy
máu nướu và viêm nướu vùng kẽ răng khi sử
dụng chỉ nha khoa và (3) So sánh hiệu quả giảm
mảng bám, chảy máu nướu và viêm nướu vùng
kẽ răng khi sử dụng chỉ nha khoa ngâm trong
dung dịch CHX so với chỉ sử dụng chỉ nha khoa.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng nửa
miệng, mù đơn.
Đối tượng
Mười lăm (15) sinh viên Răng Hàm Mặt, Đại
học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh tuổi từ 18
đến 22 và có ít nhất 20 răng thật. Trên mỗi đối
tượng, mỗi bên hàm (trái và phải) tính từ đường
giữa có 4 gai nướu với ít nhất 2 vị trí thăm khám
có chỉ số viêm nướu từ trung bình trở lên (GI ≥
2) ở mỗi gai nướu. Đối tượng đồng ý tham gia
nghiên cứu, không mắc các bệnh toàn thân,
không hút thuốc lá, không có thai và cho con bú,
hiện tại không điều trị chỉnh hình và không điều
trị nha chu trong 3 tháng gần đây.
Vật liệu nghiên cứu
Chỉ nha khoa có tay cầm, không sáp
(Okamura) và nước súc miệng chứa
chorhexidine 0,12% (Kin®).
Phương pháp nghiên cứu
Các đối tượng được cạo vôi răng, hướng
dẫn vệ sinh răng miệng và yêu cầu không thay
đổi số lần chải răng như thường ngày, không
sử dụng thêm phương tiện hỗ trợ vệ sinh răng
miệng nào khác.
Trên mỗi đối tượng, đánh số thứ tự các gai
nướu đạt tiêu chuẩn trên cung hàm sau đó
chia làm 2 nhóm: Nhóm 1: 4 gai nướu ở phần
hàm bên phải và Nhóm 2: 4 gai nướu ở phần
hàm bên trái.
Đối tượng nghiên cứu được yêu cầu sử
dụng chỉ nha khoa ngâm với dung dịch CHX
hoặc là chỉ sử dụng chỉ nha khoa trên mỗi nhóm
gai nướu ở mỗi phần hàm. Việc phân chia nhóm
gai nướu nào sử dụng phương tiên gì là ngẫu
nhiên, tùy thuộc vào số thứ tự của đối tượng
nghiên cứu đến khám. Người khám đánh giá
không biết gai nướu nào sử dụng loại dụng cụ
nào để làm sạch mảng bám.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 334
1 tuần sau khi cao vôi răng, thu thập chỉ số
PlI, GI, BOP tại thời điểm ban đầu T0.
Sau 3 tuần và 6 tuần, thu thập các chỉ số tại
thời điểm T1, T2.
Các thông tin và số liệu thu thập được phân
tích và xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS
16.0.
So sánh sự khác biệt các chỉ số PlI, GI, BOP
giữa 2 nhóm ở từng thời điểm bằng kiểm định t.
Đánh giá hiệu quả giảm các chỉ số PlI, GI,
BOP từ thời điểm T0 (ban đầu) đến T1 (sau 3
tuần), T2 (sau 6 tuần) trong cùng một nhóm
bằng kiểm định t bắt cặp.
Các tiêu chí đánh giá.
Chỉ số mảng bám (PlI), Löe và Silness (1967)
Đánh giá ở 4 vị trí: ngoài gần, ngoài xa, trong
gần, trong xa của 2 răng liên quan với gai nướu
và ghi nhận theo tiêu chí sau: Điểm số 0, không
có mảng bám; số 1, mắt thường không nhìn thấy
mảng bám nhưng phát hiện được khi dùng cây
thăm dò cạo trên mặt răng ở khe nướu; số 2,
mảng bám từ mỏng đến trung bình; số 3, mảng
bám tích tụ nhiều
Hiệu quả giảm mảng bám được tính bằng
% giảm chỉ số mảng bám:
% PlI = (PlI0 ─ PlIi) X 100/ PlI0; với PlIi: chỉ
số mảng bám tại thời điểm đánh giá; PlI0: chỉ số
mảng bám tại thời điểm ban đầu trước khi can
thiệp (ngày 0).
Chỉ số chảy máu nướu khi thăm dò (BOP)
Xác định có hay không có chảy máu nướu
khi thăm khám đúng cách. Đánh giá tại 4 vị trí
tương tự như PlI. Ghi nhận theo tiêu chí sau: 0,
không chảy máu nướu khi thăm dò và 1: có chảy
máu nướu khi thăm dò.
Phần trăm vị trí chảy máu nướu khi thăm dò:
%BOP = (Tổng số vị trí có BOP =1) X 100/
Tổng số vị trí đo
Hiệu quả giảm chảy máu nướu tính bằng
% giảm chỉ số chảy máu nướu khi thăm dò:
%BOP = (BOP0 – BOPi) X 100/ BOP0; Với
BOPi: chỉ số chảy máu nướu tại thời điểm đánh
giá; BOP0: chỉ số chảy máu nướu tại thời điểm
ban đầu trước khi can can thiệp (ngày 0).
Chỉ số nướu GI, Löe và Silness (1963)
Chỉ số được đánh giá ở 4 vị trí như chỉ số PlI.
Tổng điểm của 4 vị trí này được chia trung bình
để có điểm cho mỗi gai nướu và ghi nhận theo
tiêu chí sau: Điểm số 0, nướu bình thường; số 1,
nướu viêm nhẹ, nướu đổi màu, hơi phù, không
chảy máu khi thăm dò; số 2, nướu viêm trung
bình, đỏ, phù, chảy máu khi thăm dò; số 3, nướu
viêm nặng, đỏ, phù, lở loét, chảy máu tự phát.
Hiệu quả giảm viêm nướu được tính bằng %
giảm chỉ số nướu:
% GI = (GI0 ─ GIi) X 100/ GI0; Với GIi: chỉ số
nướu tại thời điểm đánh giá; GI0: chỉ số nướu tại
thời điểm ban đầu trước khi can thiệp (ngày 0).
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu gồm 120 gai nướu từ 15
sinh viên độ tuổi trung bình 19,5 ± 0,8 gồm 8
nam (tuổi trung bình 19,8 ± 0,5) và 7 nữ (tuổi
trung bình 19,4 ± 0,2), không có sự khác biệt có
ý nghĩa về giới tính và độ tuổi. Nhóm dùng chỉ
nha khoa ngâm trong dung dịch CHX (CNK‐
CHX) gồm 60 gai nướu với chỉ số nướu trung
bình trước khi cạo vôi răng là 1,65 ± 0,13;
nhóm dùng chỉ nha khoa (CNK) gồm 60 gai
nướu với chỉ số nướu trung bình trước khi cạo
vôi là 1,63 ± 0,11. Không có sự khác biệt thống
kê giữa 2 nhóm về chỉ số nướu tại thời điểm
chọn mẫu (p > 0,05).
‐ So sánh trong cùng 1 nhóm: Cả nhóm
CNK‐CHX và nhóm CNK, chỉ số mảng bám
giảm có ý nghĩa thống kê từ T0 đến T1 (p <
0,001). Tuy nhiên, từ thời điểm T1 đến T2, chỉ số
mảng bám tiếp tục giảm, nhưng sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 1:Trung bình chỉ số mảng bám của các nhóm
tại các thời điểm ban đầu, sau 3 và 6 tuần can thiệp.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 335
*: Kiểm định t, **: Kiểm định t bắt cặp, có ý nghĩa thống kê
khi p < 0,05.
‐ So sánh giữa 2 nhóm: Tại từng thời điểm
nghiên cứu, sự khác biệt về chỉ số mảng bám
giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p >
0,05).
Bảng 2: Hiệu quả giảm mảng bám của các nhóm tại
các thời điểm sau 3 và 6 tuần can thiệp
Nhóm
Thời điểm
% giảm chỉ số mảng bám
p*
CNK-CHX CNK
Sau 3 tuần 55,5% 53,1% 0,7
Sau 6 tuần 65,9% 60,0% 0,3
p** 0,4 0,2
*: Kiểm định t, **: Kiểm định t bắt cặp, có ý nghĩa thống kê
khi p < 0,05.
‐ So sánh trong cùng 1 nhóm: Cả nhóm
CNK‐CHX và nhóm CNK, hiệu quả giảm mảng
bám khác biệt không có ý nghĩa thống kê sau 3
và 6 tuần (p > 0,05).
‐ So sánh giữa 2 nhóm: Tại thời điểm sau 3
và 6 tuần, sự khác biệt về hiệu quả giảm mảng
bám giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê
(p> 0,05).
Bảng 3: Phần trăm chảy máu nướu của các nhóm tại
thời điểm ban đầu, sau 3 và 6 tuần can thiệp.
Nhóm
Thời điểm
% chảy máu nướu
p* CNK-CHX CNK
T0 17,5% 18,8% 0,6
T1 (3 tuần) 8,3% 9,6% 0,6
T2 (6 tuần) 3,8% 8,8% < 0,001
p** T0/T1
T0/T2
T1/T2
< 0,001
< 0,001
0,03
< 0,001
< 0,001
0,7
*: Kiểm định t, **: Kiểm định t bắt cặp, có ý nghĩa thống kê
khi p < 0,05.
‐ So sánh trong cùng 1 nhóm:
Nhóm CNK‐CHX: sự khác biệt về về phần
trăm chảy máu nướu có ý nghĩa thống kê giữa
các cặp thời điểm (p< 0,05).
Nhóm CNK: sự khác biệt về phần trăm chảy
máu nướu có ý nghĩa thống kê từ thời điểm T0
đến T1, T0 đến T2, tuy nhiên không có ý nghĩa
thống kê từ thời điểm T1 đến T2.
So sánh giữa 2 nhóm:
Tại thời điểm T0 và T1, sự khác biệt về phần
trăm chảy máu nướu giữa 2 nhóm không có ý
nghĩa thống kê (p> 0,05) Tuy nhiên, tại thời điểm
T2 sự khác biệt giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê
(p< 0,05).
Bảng 4: Hiệu quả giảm chảy máu nướu của các
nhóm tại các thời điểm sau 3 và 6 tuần can thiệp.
*: Kiểm định t, **: Kiểm định t bắt cặp, có ý nghĩa thống kê
khi p < 0,05.
‐ So sánh trong cùng 1 nhóm:
Nhóm CNK‐CHX: hiệu quả giảm chảy máu
nướu khác biệt có ý nghĩa thống kê tại thời điểm
sau 3 và 6 tuần (p < 0,001). Tuy nhiên không tìm
thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trên nhóm
CNK (p > 0,05).
‐ So sánh giữa 2 nhóm:
Sự khác biệt hiệu quả giảm chảy máu nướu
giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê sau 3
tuần (p > 0,05), nhưng sau 6 tuần cho thấy có ý
nghĩa thống kê (p < 0,001).
Bảng 5: Trung bình chỉ số nướu của các nhóm tại
thời điểm ban đầu, sau 3 và 6 tuần can thiệp.
Nhóm
Thời điểm
Chỉ số mảng bám (TB ± ĐLC)
p* CNK-CHX CNK
T0 0,91 ± 0,23 0,89 ± 0,19 0,7
T1 (3 tuần) 0,56 ± 0,31 0,57 ± 0,20 0,9
T2 (6 tuần) 0,39 ± 0,20 0,54 ± 0,39 0,01
p** T0/T1
T0/T2
T1/T2
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
< 0,001
0,6
*: Kiểm định t, **: Kiểm định t bắt cặp, có ý nghĩa thống kê
khi p < 0,05.
Nhóm
Thời điểm
Chỉ số mảng bám (TB ± ĐLC) p*
CNK-CHX CNK
T0 0,92 ± 0,21 0,89 ± 0,30 0,6
T1 (3 tuần) 0,37 ± 0,19 0,39 ± 0,20 0,6
T2 (6 tuần) 0,31 ± 0,26 0,33 ± 0,21 0,6
p** T0/T1
T0/T2
T1/T2
< 0,001
< 0,001
0,1
< 0,001
< 0,001
0,09
Nhóm
Thời điểm
% giảm chảy máu nướu
p* CNK-CHX CNK
Sau 3 tuần 51,2% 48,9% 0,8
Sau 6 tuần 78,1% 54,5% < 0,001
p** < 0,001 0,1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 336
‐ So sánh trong cùng 1 nhóm:
Nhóm CNK‐CHX: chỉ số viêm nướu giảm có
ý nghĩa thống kê từ thời điểm T0 đến T1, và từ
T1 đến T2 (p < 0,001).
Nhóm CNK: chỉ số viêm nướu giảm có ý
nghĩa thống kê từ thời điểm T0 đến T1. Từ thời
điểm T1 đến T2, chỉ số viêm nướu tiếp tục giảm
nhưng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,5).
So sánh giữa 2 nhóm:
Tại thời điểm T0 và T1, sự khác biệt về chỉ số
nướu giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê
(p> 0,05). Tuy nhiên, tại thời điểm T2, chỉ số
viêm nướu của nhóm CNK‐CHX thấp hơn có ý
nghĩa thống kê khi so sánh với nhóm CNK (p<
0,05).
Bảng 6: Hiệu quả giảm viêm nướu của các nhóm tại
các thời điểm sau 3 và 6 tuần can thiệp.
Nhóm
Thời điểm
% giảm viêm nướu
p*
CNK-CHX CNK
Sau 3 tuần 38,8% 34,8% 0,4
Sau 6 tuần 55,0% 38,2% 0,007
p** < 0,001 0,6
*: Kiểm định t, **: Kiểm định t bắt cặp, có ý nghĩa thống kê
khi p < 0,05.
‐ So sánh trong cùng 1 nhóm: Tại thời điểm
sau 3 và 6 tuần, hiệu quả giảm viêm nướu
khác biệt có ý nghĩa thống kê trên nhóm CNK‐
CHX (p < 0,001). Tuy nhiên hiệu quả này
không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê trên
nhóm CNK (p > 0,05).
‐ So sánh giữa 2 nhóm: Sự khác biệt hiệu quả
giảm viêm nướu giữa hai nhóm không có ý
nghĩa thống kê sau 3 tuần (p > 0,05), nhưng có ý
nghĩa thống kê sau 6 tuần (p < 0,001).
BÀN LUẬN
Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy, cả hai
nhóm CNK‐CHX và CNK đều giảm chảy máu
nướu và viêm nướu sau thời gian 3 đến 6 tuần
điều trị. Tuy nhiên nhóm CNK‐CHX cho thấy có
hiệu quả nhiều hơn khi so sánh với nhóm CNK
trong điều trị viêm nướu kẽ răng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuy hiệu
quả giảm mảng bám của nhóm chỉ nha khoa
ngâm trong dung dịch CHX cho thấy nhiều hơn
nhóm chỉ nha khoa nhưng không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê. Kết quả này không giống
với nghiên cứu của Sorena Vahibi và cộng sự(12).
Sự khác biệt về kết quả giữa hai nghiên cứu có
thể là do có sự khác nhau về cỡ mẫu trong hai
nghiên cứu. Sorena Vahibi và cộng sự đã sử
dụng cỡ mẫu lớn hơn gấp đôi so với trong
nghiên cứu hiện tại.
Việc giảm chảy máu nướu ở cả hai nhóm
trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự như
kết quả của những nghiên cứu khác trước đây(4).
Điều này cho thấy hiệu quả của chỉ nha khoa
trong việc điều trị viêm nướu. Pauline H. Imai
và cộng sự (2008) sau 12 tuần nghiên cứu đã cho
kết quả, nhóm chỉ nha khoa ngâm trong dung
dịch CHX có hiệu quả giảm 83% vị trí chảy máu,
trong khi nhóm chỉ nha khoa ngâm trong giả
dược tỷ lệ này là 78%(9). Kết quả này cao hơn
trong nghiên cứu của chúng tôi có thể là do thời
gian thực hiện nghiên cứu của Pauline H. Imai
tiến hành dài hơn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm chỉ
nha khoa ngâm trong dung dịch CHX cho thấy
có hiệu quả giảm chảy máu nướu cao hơn nhiều
so với nhóm chỉ nha khoa; và tỷ lệ giảm chảy
máu nướu cao hơn khi so sánh với các nghiên
cứu trước khi sử dụng nước súc miệng đơn
thuần chứa CHX. Điều này được nghĩ là CHX
tác động vào vùng nướu kẽ răng thông qua chỉ
nha khoa được thấm ướt CHX dẫn đến việc tăng
hiệu quả vượt trội hơn so với nước súc miệng
cũng như chỉ nha khoa đơn thuần.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 337
Trong nghiên cứu này, khi so sánh hiệu quả
giảm chảy máu nướu giữa 2 nhóm sau 6 tuần,
nhóm chỉ nha khoa ngâm trong dung dịch CHX
giảm nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chỉ nha khoa. Kết quả này giống với
nghiên của Pauline H. Imai (2008) khi xét trên
cùng đối tượng viêm nướu trung bình như
chúng tôi. Tuy nhiên kết quả trong nghiên cứu
này lại khác so với nghiên cứu của Kinane và
cộng sự (1992)(10). Kết quả của ông cho thấy rằng
không có sự khác biệt về hiệu quả giảm chảy
máu nướu giữa hai nhóm chỉ nha khoa ngâm
trong dung dịch CHX và nhóm chỉ nha khoa
ngâm trong giả dược (51,5% so với 51,4%).
Nguyên nhân của sự khác biệt trong nghiên cứu
này so với nghiên cứu của chúng tôi có thể là do
nồng độ CHX mà Kinane sử dụng trong can
thiệp lâm sàng thấp hơn trong nghiên cứu hiện
tại.
Tương tự như tình trạng chảy máu nướu,
trong nghiên cứu này, cả hai nhóm đều có chỉ số
nướu trung bình giảm có ý nghĩa thống kê tại cả
2 thời điểm 3 tuần và 6 tuần khi so sánh với thời
điểm ban đầu. Kết quả này phù hợp với những
nghiên cứu trước về hiệu quả của chỉ nha khoa
ngâm trong dung dịch CHX và chỉ nha khoa(9,12).
Năm 2008, Pauline và cộng sự tiến hành nghiên
cứu song song, mù đôi về hiệu quả của chỉ nha
khoa ngâm trong dung dịch CHX, kết quả chỉ ra
rằng cả 2 nhóm đều giảm chỉ số nướu trung
bình có ý nghĩa thống kê ở cả 2 thời điểm sau 6
tuần và 12 tuần(9).
Kết quả từ nghiên cứu này cũng cho thấy có
sự tương đồng với nghiên cứu của Sorena
Vahibi, khi so sánh giữa hai nhóm tại thời điểm
sau 6 tuần đều cho thấy hiệu quả giảm viêm
nướu của nhóm chỉ nha khoa ngâm trong dung
dịch CHX cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chỉ nha khoa(12).
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được hiệu
quả giảm mảng bám của nước súc miệng
CHX(7,8). Trong nghiên cứu này, chúng tôi không
tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
hiệu quả giảm mảng bám khi kết hợp chỉ nha
khoa với CHX so với chỉ nha khoa. Tuy nhiên,
việc giảm có ý nghĩa thống kê về chảy máu
nướu và viêm nướu sau 6 tuần so với chỉ nha
khoa đã cho thấy hiệu quả của chỉ nha khoa
ngâm trong dung dịch CHX trong việc điều trị
viêm nướu kẽ răng so với chỉ nha khoa.
KẾT LUẬN
Nhóm CNK‐CHX cho thấy có hiệu quả vượt
trội hơn so với nhóm CNK trong việc giảm chảy
máu nướu và làm giảm viêm nướu kẽ răng. Việc
sử dụng chỉ nha khoa có CHX sẽ giúp hỗ trợ
thêm cho việc đưa CHX vào vùng nướu kẽ răng,
nơi mà hiệu quả rất ít khi sử dụng thuốc súc
miệng chlorhexidine bằng cách súc miệng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Attin R, Ilse A, Werner C, Wiegand A, Attin T (2006),
“Antimicrobial effectiveness of a highly concentrated
chlorhexidine varnish treatment in teenagers with fixed
orthodontic appliances”, Angle Orthodontist, 6, pp.1022‐ 1027.
(Abstract)
2. Azizi A, Fatholahzadeh B, Maleknejad P, Shamspour A,
Lavaf Sh (2008), “Evaluation of the effects of Chlorhexidine
0,12% mouthwashon mouth pathogen Streptococcus and
normal microflora”, Shiraz Univ Dent J, 9, pp.299‐303.
(Abstract)
3. Barendregt DS, Timmerman MF, Van der Velden U, Vander
Weijden GA (2002), “Comparison of the bleeding on
marginalprobing index and the Eastman interdental bleeding
indexs indicators of gingivitis”, J Clin Periodontol, 29, pp.195‐
200.
4. Graves RC, Disney JA, Stamm JW (1989), “Comparative
effectiveness of flossing and brushing in reducing
interproximal bleeding”, J Periodontal, 60, pp.243‐247
5. Hà Thị Bảo Đan và cộng sự (2012), Nha chu học tập 1, Nhà xuất
bản Y học, tr.3‐173.
6. Hammond BF, Genco RJ (1990), “Contemporary periodotics,
sensivity of periodontal organism to antibiotics and other
antimicrobial agents”, The C.V mosby company, pp.161‐169.
(Abstract)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 338
7. Hase JC, Attström R, Edwardsson S, Kelty E, Kisch J (1998),
“6‐month use of 0.2% delmopinol hydrochloride in
comparison with 0,2% chlorhexidine digluconate and
placebo. (I). Effect on plaque formation and gingivitis”, J Clin
Periodontol, 25, pp.746‐753. (Abstract)
8. Imai PH (2006), “A review of the different methods of
applying chlorhexidine in the oral cavity”, Can J Dent Hygiene,
40, pp.69‐79.
9. Imai PH, Putnins EE, Brunette DM (2008), “The effects of
flossing with a chlorhexidine solution on interproximal
gingivitis: a randomized controlled trial”, Can J Dent Hygiene,
42, pp.8‐14.
10. Kinane DF, Jenkins WMM, Paterson AJ (1992), “Comparative
efficacy of the standard flossing procedure and a new floss
applicatorin reducing interproximal bleeding: a short‐term
study”, J Periodontol, 63, pp.757‐760.
11. Nguyễn Bích Vân (1999), So sánh hiệu quả của thuốc súc miệng
Givalex® và Eludril® đối với mảng bám, viêm nướu và vết dính
trên răng, Luận văn Thạc sĩ y học, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí
Minh.
12. Vahabi S, Nazemi B (2008), “A comparison of chlorhexidine
impregnated floss vs. Conventional dental floss on
gingivitis”, J Dent sch, Shahid Beheshti University of Medical
Sciences, vol 25.No4, pp.4.
13. Van der Weijden F, Slot DE (2010), “Oral hygiene in the
prevention of periodontal diseases: the evidence”, Periodon
2000, 55, pp. 104‐123.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 332_3074.pdf