Mở đầu: Sodium valproate lần đầu được mô tả về tác dụng chống động kinh tại Pháp (1963), ở trong các tài
liệu Châu Âu và sau đó được sử dụng rộng rãi nhất trong các thuốc chống động kinh. Hiện tại sodium valproate
được sử dụng trong điều trị chống động kinh ở trẻ em với nhiều loạị cơn khác nhau, đặc biệt là trong nhóm trẻ
động kinh toàn thể vô căn.
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá khả năng dung nạp và cải thiện lâm sàng của đơn trị liệu sodium
valproate, liều điều trị trung bình, các yếu tố ảnh hưởng đến việc đáp ứng thuốc và tác dụng phụ của thuốc.
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả trên 72 bệnh nhân động kinh toàn thể vô căn dùng đơn trị
liệu valproate. Các biến số thu thập được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 542 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Hiệu quả của valproate sodium trong điều trị động kinh toàn thể vô căn ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 511
HIỆU QUẢ CỦA VALPROATE SODIUM
TRONG ĐIỀU TRỊ ĐỘNG KINH TOÀN THỂ VÔ CĂN Ở TRẺ EM
Lê Văn Tuấn*, Phạm Quỳnh Nga**
TÓM TẮT
Mở đầu: Sodium valproate lần đầu được mô tả về tác dụng chống động kinh tại Pháp (1963), ở trong các tài
liệu Châu Âu và sau đó được sử dụng rộng rãi nhất trong các thuốc chống động kinh. Hiện tại sodium valproate
được sử dụng trong điều trị chống động kinh ở trẻ em với nhiều loạị cơn khác nhau, đặc biệt là trong nhóm trẻ
động kinh toàn thể vô căn.
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá khả năng dung nạp và cải thiện lâm sàng của đơn trị liệu sodium
valproate, liều điều trị trung bình, các yếu tố ảnh hưởng đến việc đáp ứng thuốc và tác dụng phụ của thuốc.
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả trên 72 bệnh nhân động kinh toàn thể vô căn dùng đơn trị
liệu valproate. Các biến số thu thập được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0.
Kết quả: Tổng số 72 bệnh nhân, tuổi trung bình 5 tuổi 4 tháng; 59,7% bệnh nhân hết cơn hoàn toàn. Đáp
ứng tốt nhất với thuốc điều trị là nhóm bệnh nhân có cơn co cứng‐co giật.Nhóm bệnh nhân có cơn vắng ý thức,
bệnh nhân có cơn co cứng, hay cơn giật cơ đáp ứng kém hơn. Liều điều trị ở mức trung bình. Các tác dụng phụ
thường nhẹ hay thoáng qua, thường gặp chủ yếu là tăng cân.
Kết luận: valproate kiểm soát tốt cơn động kinh toàn thể vô căn ở trẻ nhỏ với tỷ lệ hết cơn cao, liều điều trị ở
mức 10‐20mg/kg cân nặng. Tác dụng phụ đa phần nhẹ và không ảnh hưởng đến việc ngưng thuốc điều trị.
Từ khóa: thuốc chống động kinh, động kinh trẻ em, chữa trị động kinh.
ABSTRACT
THE EFFICACY OF SODIUM VALPROATE IN TREATMENT
OF IDIOPATHIC GENERALIZED EPILEPSIES IN CHILDREN
Le Van Tuan, Pham Quynh Nga
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 511 ‐ 515
Background: Sodium valproate was first described with antiepileptic effect in France (1963), in Europe and
then is used as an anti‐epileptic drugs the most widely now. Currently sodium valproate is used in the treatment
of epilepsy in children with many different types of seizures, especially in the group of children with idiopathic
generalized epilepsies.
Objective: The aim of this study was to evaluate tolerability and clinical improvement of sodium valproate
monotherapy, factors affecting drug response and side effects of medications
Methods:, descriptive cross‐sectional study was performed in 72 patients suffering from IGE on sodium
valproate monotherapy. Statistical analysis is done with the software SPSS 16.0 for window.
Result: The total number of 72 patients, median age 5 years 4 months, 59.7% of children became seizure‐free
on valproate monotherapy. Respond well to treatment as patients with generalized tonic‐clonic seizures, Group of
patients with absence, tonic or myoclonic seizures response worse. The response doses are in the average.
Common side effects are mild weight gain, other side effects are generally mild and transient.
Conclusion: children with diagnosed IGE response well to sodium valproate. The average dose of the
responders was 10‐20 mg/kg. Side effects were mostly mild and do not affect the treatment discontinuations.
Keywords: antiepileptic drugs, child neurology, epilepsy, treatment, neuropharmacology.
* Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Quỳnh Nga ĐT: 0909333538 Email: pnbinh@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 512
ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh toàn thể vô căn chiếm khoảng
20% trẻ em được điều trị bệnh động kinh(5) Hầu
hết các hội chứng động kinh toàn thể vô căn
khởi đầu ở trẻ em hoặc thiếu niên nhưng không
như nhiều thông tin về các đáp ứng điều trị ở trẻ
em mới được chẩn đoán. Trong các thuốc động
kinh cổ điển thì sodium valproate có thể điều trị
được tất cả các thể lâm sàng của cơn động kinh
toàn thể(6). Năm1963, đặc tính chống động kinh
của valproate được khám phá bởi Meunier.
Năm 1964 đầu tiên công bố sodium valproate là
thuốc chống động kinh. Năm 1978 FDA chuẩn
thuận cho chỉ định điều trị động kinh cơn vắng
ý thức, sau đó là điều trị động kinh cục bộ. Theo
Guerri(2) nhận định: với phổ tác dụng rộng đối
với các loại cơn động kinh và hội chứng động
kinh, valproate là thuốc lựa chọn đầu tiên cho
trè em được chẩn đoán động kinh lần đầu tiên
(cục bộ và toàn thể), toàn thể nguyên phát vô
căn, động kinh giật cơ và động kinh với nhiều
loại cơn khác nhau, động kinh với kích thích ánh
sáng. Nghiên cứu về tác dụng của valproate
được thức hiện ở nhiều nơi trên thế giới, trong
các nghiên cứu so sánh với các nhóm thuốc
chống động kinh khác hay nghiên cứu mở trong
đó valproate được chỉ định điều trị đầu tiên cho
nhóm trẻ mới được chẩn đoán động kinh toàn
thể vô căn, nhưng chưa được thực hiện tại Việt
Nam. Xuất phát từ vấn đề trên chúng tôi tiến
hành nghiên cứu trên nhóm trẻ động kinh vô
căn tại bệnh viện Nhi Đồng Hai với những mục
tiêu cụ thể sau: Khả năng dung nạp và cải thiện
lâm sàng của đơn trị liệu sodium valproate, tiều
điều trị trung bình và các yếu tố ảnh hưởng đến
khả năng đáp ứng cơn, tác dụng phụ của thuốc,
đánh giá giữa tác dụng phụ với ích lợi việc kiểm
soát cơn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chọn mẫu là bệnh nhân được chẩn đoán
động kinh toàn thể vô căn tuổi từ 12 tháng đến
15 tuổi tại phòng khám bệnh viện Nhi Đồng hai
được chỉ định điều trị sodium valproate từ 6
tháng trở lên. Thông tin từ lịch sử và xét nghiệm
chẩn đoán đã được sử dụng để phân loại động
kinh của mỗi đứa trẻ Các biến số gồm các đặc
điểm lâm sàng, loại cơn động kinh, hình ảnh
học, điện não đồ, thời gian điều trị, khả năng
đáp ứng cơn, tác dụng phụ của thuốc. Việc đánh
giá mức độ đáp ứng thuốc được thực hiện bằng
cách phỏng vấn thân nhân, thu nhận các dữ liệu
cận lâm sàng mới như EEG, xét nghiệm chức
năng gan thận về tác dụng phụ của thuốc. Các
dữ liệu thu thập được ghi trong bệnh án nghiên
cứu, sau đó nhập liệu vào phần nhập dữ liệu của
phần mềm thống kê SPSS 16.0 để khảo sát về sự
liên quan của các biến số với khả năng đáp ứng
thuốc. Trong phân tích đơn biến, các biến số
định tính được phân tích bằng phép kiểm chi
bình phương, các biến số định lượng phân tích
bằng phép kiểm t mẫu độc lập nếu có phân bố
chuẩn, bằng phép kiểm Anova trong phân tích
đa biến. Từ đó rút ra nhận định về khả năng đáp
ứng cơn với từng nhóm trẻ theo phân loại cơn
động kinh toàn thể vô căn, liều thuốc trung bình
được sử dụng, mối liên hệ giữa các yếu tố lên sự
đáp ứng cơ, tác dụng phụ của thuốc.
KẾT QUẢ
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Tỷ lệ trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ (59,7%, và
40,3%), trẻ ở nhóm từ hai đến năm tuổi chiếm tỷ
lệ cao nhất trong nhóm (55,6%), tuổi trung bình
là 5 năm 4 tháng.Trẻ được phân loại theo cơn
động kinh trong đó cơn co cứng‐co giật chiếm tỷ
lệ cao nhất (61,1%), cơn vắng ý thức(16,7%), cơn
giật cơ (11,1%), cơn co cứng là 7 (9,7%), cơn mất
trương lực (1,4%), không ghi nhận được cơn co
giật. 20,6% trẻ có tiền căn sốt co giật, chiếm tỷ lệ
khá cao trong nhóm. Đặc điểm điện não đồ ghi
nhận 75% có sóng động kinh điển hình toàn thể,
21,4% có sóng bất thường nhưng không điển
hình, 3,6% có điện não đồ bình thường. Hình
ảnh học được thực hiện trên 33,3% bệnh nhân
và không ghi nhận bất thường. 9,7% bệnh
nhân phát triển tâm thần vận động chậm hơn
so với lứa tuổi, nhóm trẻ phát triển bình
thường là 90,3%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 513
Đáp ứng với điều trị sodium valproate
Số trẻ có thời gian điều trị kéo dài trên 2 năm
chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm nghiên cứu
chiếm 51,1%. Thời gian điều trị trung bình của
nhóm nghiên cứu là 20 tháng. Tuân thủ điều trị
chiếm 68/72 trẻ. Đáp ứng điều trị hết cơn 100%
sau 6 tháng là 46%, sau 1 năm là 52% và sau 2
năm là 71 %. Đáp ứng chung hết cơn 100% toàn
nhóm nghiên cứu là 59,7%. Đáp ứng tốt với
thuốc điều trị là nhóm bệnh nhân có cơn co
cứng‐co giật. Nhóm bệnh nhân có cơn vắng ý
thức cũng đáp ứng khá tốt với sodium
valproate, tuy nhiên với bệnh nhân có cơn co
cứng, hay cơn giật cơ đáp ứng khá với thuốc
điều trị, ghi nhận 1 bệnh nhân giật cơ đáp ứng
kém với thuốc điều trị dù đã được dùng ở liều
điều trị trung bình.
Đáp ứng với điều trị sodium valproate
Liều điều trị và các yếu tố ảnh hưởng đến
khả năng đáp ứng cơn
Liều điều trị trung bình ở nhóm nghiên cứu
là 14,2mg/kg/liều 2 lần một ngày, nhóm động
kinh giật cơ có liều điều trị trung bình cao hơn
các nhóm khác 18,9 ± 6,7 mg/kg/liều 2 lần một
ngày. Ở nhóm bệnh nhân hết cơn 100%, liều
điều trị trung bình là 11,01 ± 4,4 mg/kg/liều 2 lần
một ngày, thấp hơn so với nhóm đáp ứng hết
cơn 50% và 30%, có thể nói Valproate sử dụng ở
mức liều điều trị trung bình theo khuyến cáo từ
10‐20mg/kg/liều 2 lần một ngày cho kết quả đáp
ứng thuốc tốt. Sự khác nhau ở khả năng đáp
ứng cơn phụ thuộc vào loại cơn động kinh ở trẻ,
đặc biệt ở nhóm bệnh nhân giật cơ, co cứng, mất
trương lực với lâm sàng đa dạng, chẩn đoán khá
phức tạp, khả năng đáp ứng kém hơn các nhóm
khác. Các yếu tố gồm tuổi, giới, tiền căn sốt co
giật, đặc điểm phát triển tâm thần vận động
không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng thuốc
trên bệnh nhân.
Tác dụng phụ của thuốc
Tác dụng phụ nhận thấy trên 14 bệnh nhân,
với chủ yếu là nhẹ hoặc thoáng qua, trong đó
chủ yếu là tăng cân trên 10 trẻ, tuy nhiên các tác
dụng phụ này không làm cho bệnh nhân phải
giảm liều hay ngưng điều trị. Không thấy có mối
liên hệ giữa liều trung bình và tác dụng phụ ở
bệnh nhân.
BÀN LUẬN
Các nghiên cứu trên thế giới về tác dụng của
sodium valproate thường được thực hiện ở đa
trung tâm, trong đó thường so sánh tác dụng
điều trị của sodium với các loại thuốc chống
động kinh khác như nghiên cứu của SANAD(8)
đánh giá hiệu quả của Sodium Valproate,
Lamotrigine, hoặc Topiramate đối với động kinh
toàn thể và không xếp loại năm 2007 tại Anh,
một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đối
chứng, không mù đôi trên 716 bệnh nhân, trong
đó valproate được sử dụng trên 238 bệnh nhân,
tác giả nhận định: tỷ lệ không lên cơn sau 1 năm
đối với valproate cao hơn 80%. Sodium
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 514
valproate vẫn là sự lựa chọn tốt hơn
Lamotrigine. Topiramate có hiệu quả ở giữa
Valpraote và Lamotrigine. Nghiên cứu so sánh
tác dụng của Sodium valproate và
Carbamazepine trên 260 trẻ em với động kinh
toàn thể nguyên phát hoặc động kinh cục bộ (có
hoặc không toàn thể hóa thứ phát) của Verity
CM(13) et al tại 63 phòng khám tại Anh và Ailen.
Kết quả phân tích cho thấy có ít sự khác biệt của
hai loại thuốc đối với tác dụng kiểm soát cơn
động kinh cục bộ hay toàn thể, cả hai loại đều
cho thấy khoảng 75% bệnh nhân không có cơn
động kinh trong vòng 12 tháng khoảng 45‐55%
không có cơn trong vòng hai năm. Một số
nghiên cức mở cũng được thực hiện như nghiên
cứu của Holland K.D(4) và cộng sự trên 84 bệnh
nhân nhi tuổi từ 2‐18 mới được chẩn đoán động
kinh toàn thể vô căn được sử dụng sodium
valproate là đơn trị liệu đầu tiên năm 2010 57 %
trẻ không có cơn động kinh sau khi dùng thuốc
được 12 tháng. Kết quả đáp ứng thuốc toàn mẫu
của chúng tôi là 59.7% cũng phù hợp với kết quả
thu được từ các nghiên cứu khác. Trong nhóm
trẻ nghiên cứu, nhóm trẻ có cơn động kinh co
cứng‐co giật toàn thể đáp ứng tốt nhất với điều
trị. Theo nghiên cứu của Nicolson sử dụng
valproate trên trẻ động kinh vô căn, tác giả ghi
nhận bệnh nhân có cơn co cứng‐cogiật có kết
quả đáp ứng điều trị tốt nhất. Nhóm trẻ động
kinh vắng ý thức trong nghiên cứu của chúng
tôi cũng đáp ứng 50% hết cơn hoàn toàn với
sodium valproate. Trong một nghiên cứu
Ollivier ML(12), ông nhận thấy nhóm trẻ ó cơn
vắng ý thức không đáp ứng tốt thường kèm
theo cơn toàn thể co cứng‐co giật, có hơn 10
cơn/ngày, có tuổi mắc bệnh nhỏ. Nhóm trẻ có
cơn giật cơ, cơn co cứng, cơn mất trương lực với
lâm sàng đa dạng và phức tạp đáp ứng với
thuốc khác nhau. Theo nghiên cứu của Hirano
Y(3), về các yếu tố lâm sàng liên quan đến kháng
trị ở động kinh giật cơ thiếu niên. Theo ông, mặc
dù động kinh giật cơ thiếu niên có thể dễ dàng
kiểm soát bằng các thuốc chống động kinh thích
hợp, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy
15 đến 20% bệnh nhân động kinh giật cơ thiếu
niên kháng trị với điều trị mặc dù được chẩn
đoán chính xác và lựa chọn thuốc thích hợp.
Theo nghiên cứu của Fernando‐Dongas(1), về
động kinh giật cơ kháng trị với valproate, nhóm
bệnh nhân không đáp ứng với đơn trị liệu
valproate có tần số bất đối xứng trên điện não
đồ nhiều hơn so với nhóm đáp ứng với điều trị,
một giả thuyết bệnh nhân đông kinh giật cơ
không đáp ứng với valproate có liên quan đến ổ
động kinh cục bộ.
Nhận thấy nhóm trẻ đáp ứng hết cơn 100%
có liều điều trị trung bình là 11,01 ± 4,42
mg//kg/liều, nằm trong khoảng khuyến cáo liều
điều trị duy trì ở mức trung bình theo khuyến
cáo tứ 10‐20mg/kg cân nặng/liều. Nhóm trẻ đáp
ứng thuốc kém được sử dụng ở liều cao hơn
nhưng không vượt quá 30mg/kg cân nặng. Theo
nghiên cứu Lundberg(7) về liều valproate trên
bệnh nhân nhi động kinh ông nhận thấy nhóm
trẻ vắng ý thức đáp ứng tốt với thuốc với liều
10‐20mg/kg cân nặng 2 lần ngày và bệnh nhân
động kinh giật cơ cần liều cao hơn 15‐30mg/kg
cân nặng 2 lần một ngày.
Tuổi, giới, tiền căn sốt co giật, đặc điểm phát
triển tâm thần khác khác nhau ở trẻ trong nhóm
nghiên cứu không ảnh hưởng đến khả năng đáp
ứng. Kết quả này của chúng tôi cũng có những
nét tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Nicolson(10), ông cho rằng các yếu tố như tuổi,
giới, tiền căn sốt co giật của nhóm bệnh nhân
động kinh toàn thể vô căn không ảnh hưởng
đến đáp ứng với thuốc chống động kinh mà yếu
tố quyết định tác dụng của điều trị phụ thuộc
chính vào loại đơn trị liệu nào được sử dụng
Tác dụng phụ thường gặp có 10 trẻ tăng cân
nhẹ so với cân nặng trước khi sử dụng. Không
có trường hợp bệnh nhân phải đổi thuốc do
không chấp nhận được tác dụng phụ. Theo
nghiên cứu của Novak GP(11), về nguy cơ tăng
cân trên trẻ điều trị động kinh, tác giả ghi nhận
chỉ số cân nặng ban đầu ảnh hưởng lớn nhất đến
mức độ tăng cân của trẻ khi được sử dụng
valproate mà không phụ thuộc vào các yếu tố
khác. Theo Mehrotra TN(9) sử dụng valproate với
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 515
liều điều trị trung bình 19,6mg/kg cân nặng/2
lần ngày trong 90 bệnh nhân động kinh, ông chỉ
nhận thấy tác dụng phụ rất nhẹ, không có bất
thường về các chỉ số huyết học hay độc tính trên
gan được ghi nhận.
KẾT LUẬN
Tóm lại valproate kiểm soát tốt cơn động
kinh toàn thể vô căn ở trẻ nhỏ với tỷ lệ hết cơn
cao, liều sử dụng điều trị nằm ở mức trung bình.
Tuổi, giới, đặc điểm phát triển tâm thần vận
động, tiền căn sốt co giật, liều điều trị trung bình
không ảnh hưởng lên sự đáp ứng cơn. Valproate
có tác dụng tốt nhất với nhóm trẻ động kinh
toàn thể vô căn với cơn co cứng‐co giật, nhóm
trẻ động kinh giật cơ, co cứng đáp ứng kém hơn
và đòi hỏi liều trung bình thường cao hơn. Tác
dụng phụ đa phần nhẹ và thoáng qua, thường
gặp chủ yếu là tăng cân nhẹ nhưng không ảnh
hưởng đến giảm liều hay ngưng điều trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fernando‐Dongas MC, Radtke RA, VanLandingham KE,
Husain AM (2000). ʺCharacteristics of valproic acid resistant
juvenile myoclonic epilepsyʺ. Seizure, 9 (6), pp. 385‐8.
2. Guerrini R (2006). ʺValproate as a mainstay of therapy for
pediatric epilepsyʺ. Paediatr Drugs, 8 (2), pp. 113‐29
3. Hirano Y, Oguni H, Osawa M (2008). ʺClinical factors related to
treatment resistance in juvenile myoclonic epilepsyʺ. Rinsho
Shinkeigaku, 48 (10), pp. 727‐32.
4. Holland KD Monahan S, Morita D, Vartzelis G, Glauser TA
(2010), ʺValproate in children with newly diagnosed idiopathic
generalized epilepsyʺ. Acta Neurologica Scandinavica, 121 (3), pp.
149‐153
5. Jallon P., Patrick L. (2005), ʺEpidemiology of Idiopathic
Generalized Epilepsiesʺ. Epilepsia, 46 (supplement s9), pp. 10‐14
6. Lê Quang Cường (2009). ʺPhân loại và các nguyên nhân gây
động kinh ʺ, Điều trị động kinh. Nhà xuất bản Y học, TP Hồ Chí
Minh, tr.5‐44
7. Lundberg B, Nergardh A, Boreus LO (1982). ʺPlasma
concentrations of valproate during maintenance therapy in
epileptic childrenʺ. J Neurol, 228 (2), pp. 133‐41.
8. Marson AG, Al‐Kharusi AM, Alwaidh M, Appleton R, Baker
GA, et al (2007). ʺThe SANAD study of effectiveness of
valproate, lamotrigine, or topiramate for generalised and
unclassifiable epilepsy: an unblinded randomised controlled
trialʺ. Lancet, 369 (9566), pp. 1016‐26.
9. Mehrotra TN, Aneja GK, Arora V, Goel S, Singh VS (1990).
ʺValproate sodium in epilepsy. A clinical trial including
monitoring of drug levelsʺ. J Assoc Physicians India, 38 (4), pp.
277‐9.
10. Nicolson A, Appleton RE, Chadwick DW, Smith DF (2004).
ʺThe relationship between treatment with valproate,
lamotrigine, and topiramate and the prognosis of the idiopathic
generalised epilepsiesʺ. J Neurol Neurosurg Psychiatry, 75 (1), pp.
75‐9.
11. Novak GP, Maytal J, Alshansky A, Eviatar L, Sy‐Kho R, et al
(1999). ʺRisk of excessive weight gain in epileptic children
treated with valproateʺ. J Child Neurol, 14 (8), pp. 490‐5.
12. Ollivier ML, Dubois MF, Krajinovic M, Cossette P, Carmant L
(2009). ʺRisk factors for valproic acid resistance in childhood
absence epilepsyʺ. Seizure, 18 (10), pp. 690‐4.
13. Verity CM, Hosking G, Easter DJ (1995), ʺA multicentre
comparative trial of sodium valproate and carbamazepine in
paediatric epilepsy. The Paediatric EPITEG Collaborative
Groupʺ. Dev Med Child Neurol, 37 (2), pp. 97‐108
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 511_5889.pdf