Hiệp định TPP - Cơ hội và thách thức của Việt Nam

Hiệp định TPP (tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic EconomicPartnership Agreement) là Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương. Do lúc đầu chỉ có 4 nước tham gia nên còn được gọi là P4.

Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chi-lê, Niu Di-lân và Xinh-ga-po (P3) phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mê-hi-cô. Tháng 4 năm 2005, Bru-nei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4.

Đây là Hiệp định mang tính "mở". Tuy không phải là chương trình hợp tác trong khuôn khổ APEC nhưng các thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu quan tâm. Xinh-ga-po đã nhiều lần thể hiện mong muốn mở rộng TPP và sử dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về Khu vực Mậu dịch Tự do Châu Á-Thái Bình Dương của APEC (FTAAP).

Từ năm 2010 đến nay, có thêm 8 nước tham gia đàm phán gồm: Hoa Kỳ, Australia, Peru, Canada, Mexico, Việt Nam, Nhật Bản và Malaysia. Với 12 đối tác, trong đó có những nền kinh tế mạnh như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Australia, TPP trở thành một khu vực kinh tế với thị trường hơn 790 triệu dân, tổng GDP là 27000 tỷ USD, đóng góp 40% GDP và chiếm khoảng 1/3 kim ngạch thương mại toàn cầu.

 

docx8 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 798 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Hiệp định TPP - Cơ hội và thách thức của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hiệp định TPP - Cơ hội và thách thức của Việt Nam Chương 1: Giới thiệu về TPP & quá trình đàm phán của VN Lịch sử hình thành và phát triển của TTP Hiệp định TPP (tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic EconomicPartnership Agreement) là Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương. Do lúc đầu chỉ có 4 nước tham gia nên còn được gọi là P4. Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chi-lê, Niu Di-lân và Xinh-ga-po (P3) phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mê-hi-cô. Tháng 4 năm 2005, Bru-nei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4. Đây là Hiệp định mang tính "mở". Tuy không phải là chương trình hợp tác trong khuôn khổ APEC nhưng các thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu quan tâm. Xinh-ga-po đã nhiều lần thể hiện mong muốn mở rộng TPP và sử dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về Khu vực Mậu dịch Tự do Châu Á-Thái Bình Dương của APEC (FTAAP). Từ năm 2010 đến nay, có thêm 8 nước tham gia đàm phán gồm: Hoa Kỳ, Australia, Peru, Canada, Mexico, Việt Nam, Nhật Bản và Malaysia. Với 12 đối tác, trong đó có những nền kinh tế mạnh như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Australia, TPP trở thành một khu vực kinh tế với thị trường hơn 790 triệu dân, tổng GDP là 27000 tỷ USD, đóng góp 40% GDP và chiếm khoảng 1/3 kim ngạch thương mại toàn cầu. 1.2. Nguyên tắc hoạt động của TPP Hiệp định TPP với nguyên tắc tự do trong hoạt động đầu tư, tạo cơ hội thu hút vốn đầu tư trong các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế tạo, các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Đối với lĩnh vực viễn thông, tài chính, ngân hàng, vận tải với nguyên tắc mở rộng hơn trong việc tiếp cận thị trường, TPP tạo cơ hội cho gia tăng đầu tư trong các lĩnh vực này, đặc biệt thu hút vốn đầu tư từ các dự án tái đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Nguyên tắc xuất xứ nội khối tạo ra những cơ hội, nhưng cũng là thách thức với các doanh nghiệp FDI xuất khẩu sang các quốc gia thành viên TPP. Nhà đầu tư từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan là những quốc gia có tỷ trọng đầu tư lớn tại Việt Nam mà nguồn đầu vào không có đủ làm lượng xuất xứ từ TPP không được hưởng ưu đãi từ hiệp định này sẽ tạo sự cạnh tranh gay gắt với sản phẩm từ các nước thuộc nội khối TPP. Một trong những nguyên tắc quan trọng trong TPP là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước tiếp nhận đầu tư trong việc đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Nguyên tắc này tạo điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ các nước nội khối TPP, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam cần hoàn thiện một cách nhanh chóng, đồng bộ các thể chế về giải quyết, công nhận và thực thi các phán quyết của trọng tài quốc tế, cải cách thủ tục hành chính, áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ, chuyên nghiệp trong việc thực thi các quy định có liên quan tới đầu tư. Sự cần thiết gia nhập TPP So với toàn thế giới, hiện các thành viên tham gia đàm phán TPP chiếm 24,9% về diện tích; 11,1% về dân số; chiếm 37,7% về GDP; chiếm khoảng 19,3% về xuất khẩu, khoảng 21,1% về nhập khẩu. Trong 12 thành viên TPP, Việt Nam đứng thứ 8 về diện tích, thứ 4 về dân số, thứ 11 về GDP, thứ 8 về xuất khẩu, thứ 8 về nhập khẩu. Trong 12 nước, có 4 nước nhập siêu, lớn nhất là Mỹ; có 8 nước xuất siêu, trong đó có Việt Nam. Việt Nam chiếm 0,5% về GDP, chiếm 2,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, chiếm gần 2% tổng kim ngạch nhập khẩu của TPP. Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào TPP năm 2010 chiếm 43,3%, năm 2013 chiếm 39%. Nhập khẩu của Việt Nam năm 2013 từ TPP chiếm 22,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam vào TPP chiếm khoảng 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của các nước thành viên TPP. Điều đó chứng tỏ TPP là thị trường tiềm năng của Việt Nam. Trong quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với các thành viên còn lại của TPP, Việt Nam ở vị thế xuất siêu khá lớn (năm 2013 đạt 21,4 tỷ  USD, bằng 41,5% kim ngạch xuất khẩu). Trong 11 nước, Việt Nam xuất siêu với 6 nước, lớn nhất là Mỹ, Nhật Bản, Australia, Canada; nhập siêu với 5 nước, lớn nhất là Singapore. Đầu tư trực tiếp của các thành viên TPP vào Việt Nam (tính từ 1988 đến hết 2013) như sau: Nhật  Bản 30 tỷ  USD, đứng thứ 1; Singapore 27,89 tỷ  USD, đứng thứ 3; Mỹ 10,56 tỷ  USD, đứng thứ 7; Malaysia 10,20 tỷ  USD, đứng thứ 8; Australia 1,38 tỷ  USD, đứng thứ 15. Chỉ với 5 đối tác này tổng lượng vốn FDI đăng ký đã đạt trên 80 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng lượng vốn FDI ở Việt Nam. Chương 2: Nội dung chính các hiệp định của TPP Hiệp định TPP có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ (chưa bao gồm dịch vụ tài chính do được đàm phán sau), vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), rào cản kỹ thuật (TBT), chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ và minh bạch hóa. Ngoài ra, còn có một chương về hợp tác và 02 văn kiện đi kèm về Hợp tác Môi trường và Hợp tác Lao động. Theo thỏa thuận, các bên tham gia P4 sẽ tiếp tục đàm phán và ký 02 văn kiện quan trọng về đầu tư và dịch vụ tài chính, chậm nhất là sau 02 năm kể từ khi P4 chính thức có hiệu lực (tức là từ tháng 3 năm 2008). Điểm nổi bật nhất của P4 là tự do hóa rất mạnh về hàng hóa. Thuế nhập khẩu được xóa bỏ hoàn toàn và phần lớn là xóa bỏ ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực. Về dịch vụ, P4 thực hiện tự do hóa mạnh theo phương thức chọn-bỏ. Theo đó, tất cả các ngành dịch vụ đều được mở, trừ những ngành nằm trong danh mục loại trừ. Chương 3: Quan hệ Việt Nam và TPP 3.1 Quá trình đàm phán Hiệp định TPP hiện nay được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ 21. Phạm vi của Hiệp định sẽ bao gồm hầu hết các lĩnh vực có liên quan tới thương mại, trong đó có nhiều lĩnh vực mới như môi trường, lao động, các vấn đề xuyên suốt liên quan đến thương mại như chuỗi cung ứng, doanh nghiệp vừa và nhỏ v.v TPP mới đang là giai đoạn đàm phán, chưa phải là một khuôn khổ pháp lý như WTO. Vì vậy, việc kết thúc đàm phán và đi đến ký kết TPP phụ thuộc vào kết quả đàm phán giữa các bên. Hiện nay, khó có thể nói quá trình mất bao lâu. Cho tới nay, Hiệp định TPP đã trải qua 7 vòng đàm phán, lần lượt được tổ chức tại các quốc gia thành viên là Úc (vào tháng 3 năm 2010), Hoa Kỳ (tháng 6 năm 2010), Bru-nây (tháng 10 năm 2010), Niu-di-lân (tháng 12 năm 2010), Chi-lê (tháng 2 năm 2011), Xinh-ga-po (tháng 3 năm 2011) và Việt Nam (tháng 6 năm 2011). 3.2. Những cơ hội từ TTP đối với Việt nam Các cơ hội do việc tham gia TPP mang lại có nhiều, trong đó, chủ yếu gồm: Thứ nhất, tạo điều kiện cho xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao, nhờ TPP gồm các thị trường lớn, trong đó có 2 thị trường lớn nhất của Việt Nam; thuế nhập khẩu về mức 0%; Nhật Bản xóa bỏ thuế nhập khẩu cho hàng nông sản trong TPP. Các mặt hàng được hưởng lợi lớn là dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ và nông sản. Đó là những mặt hàng mà kim ngạch xuất khẩu vào các nước thành viên TPP chiếm tỷ trọng lớn. Thứ hai, việc tham gia TPP sẽ giúp cho Việt Nam cân bằng được quan hệ thương mại với các khu vực thị trường khác. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2013 từ Trung Quốc là 36,95 tỷ USD, Hàn Quốc 20,7 tỷ USD, Đài Loan (Trung Quốc) 9,42 tỷ USD, Thái Lan 6,31 tỷ USD, Singapore 5,7 tỷ USD (chỉ với 5 thị trường này đã đạt 79,1 tỷ USD, chiếm 59,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam). Cũng chỉ với 5 thị trường này, tổng mức nhập siêu lên đến 51,22 tỷ USD, trong đó riêng Trung Quốc đã chiếm gần một nửa. Đáng lưu ý, việc nhập khẩu, nhập siêu lớn từ Trung Quốc có một phần do là nước láng giềng có đường biên giới dài, một phần lớn do nhiều người ở Việt Nam ham giá rẻ, trong khi máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng lớn thì không phải là công nghiệp nguồn, nhiều loại hàng tiêu dùng không được kiểm tra chặt chẽ, vệ sinh an toàn Theo quy tắc xuất xứ, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các thành viên TPP muốn được hưởng thuế suất như trên, thì phải có nguyên liệu tự sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước thành viên TPP. Tuy nhiên, phần nguyên phụ liệu của Việt Nam phần lớn lại phụ thuộc nhập khẩu từ các nước nằm ngoài TPP (nhất là từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, một số nước trong khu vực ASEAN). Vấn đề đặt ra là chúng ta cần đẩy mạnh phát triển công nghệ phụ trợ; đẩy mạnh sản xuất nguyên vật liệu sản xuất ở trong nước; chuyển trọng tâm nhập khẩu sang các thành viên TPPTừ đó, Việt Nam có thể giảm nhập siêu và tang cường khả năng sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng ở tất cả các khâu. Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam của các nước thành viên TPP và các nước khác ngoài TPP sẽ gia tăng để tận dụng cơ hội gia tăng xuất khẩu vào TPP, nhất là các thị trường lớn, như Mỹ, Nhật Bản, Canada Thứ tư, tham gia và với tác động của  TPP với các cam kết sâu, rộng hơn WTO đòi hỏi Việt Nam đẩy nhanh công cuộc tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng Thứ năm, theo Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới thể chế, thì việc tham gia TPP của Việt Nam sẽ có tác động tích cực trong việc hoàn thiện thể chế cũng như cải cách hành chính. 3.3. Những thách thức từ TTP Thách thức lớn và dễ thấy nhất là sức ép cạnh tranh. Thách thức sức ép cạnh tranh xuất phát từ 3 động thái, đó là việc giảm thuế nhập khẩu về 0%; mở cửa thị trường dịch vụ đầu tư và mua sắm chính phủ trong khuôn khổ TPP. Sức ép cạnh tranh do giảm thuế nhập khẩu về 0%, chủ yếu đến từ các nước mà Việt Nam hiện chưa có quan hệ FTA, gồm Mỹ, Canada, Mexico và Peru; còn 7 nước mà Việt Nam đã có quan hệ FTA như Brunei, Malaysia, Singapore, Australia, Chile, New Zealand, Nhật Bản, thì trong tương lai gần, dù Việt Nam có tham gia hay không tham gia TPP, thuế nhập khẩu áp dụng cho hàng hóa của những nước này vẫn được hạ về 0%. Ngay cả đối với 4 nước mà Việt Nam chưa có quan hệ FTA, thì hoặc là có cơ cấu xuất nhập khẩu mang tính bổ sung hơn là cạnh tranh với cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam (như Mỹ, Canada), hoặc là không có triển vọng nhâm nhập thị trường Việt Nam với mức độ lớn để gây ra sức ép cạnh tranh (như Peru, Mexico). Nếu phân tích sâu cơ cấu xuất khẩu của các ngành công nghiệp, có thể thấy mức độ cạnh tranh cụ thể như sau: - Những ngành sản xuất của Việt Nam thực sự gặp khó khăn sẽ là ô tô, thịt lợn, thịt bò và đường; sau đó là thực phẩm chế biến, rượu và  hoá phẩm tiêu dùng; - Những mặt hàng được bảo hộ cao như muối, lá thuốc lá, trứng gia cầm, thép, giấy, do các nước TPP hoặc là không xuất khẩu hoặc là xuất khẩu hướng đến phân khúc thị trường khác so với sản xuất trong nước; - Riêng với xăng dầu, tác động được xét chủ yếu là Việt Nam sẽ mất đi một trong những công cụ điều hành giá quan trọng. Trong việc mở cửa lĩnh vực dịch vụ, sau 7 năm thực hiện cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thì độ mở của lĩnh vực này đã khá hơn, nhưng sức ép cạnh tranh từ 3 ngành chính là ngân hàng, thương mại bán lẻ và một phần từ viễn thông giá trị gia tăng. Trong lĩnh vực mua sắm chính phủ, sức ép cạnh tranh tuy có nhưng sẽ tăng lên dần. Một thách thức không nhỏ khác là thu ngân sách. Năm 2013, thách thức này chủ yếu đến từ hiệu quả sản xuất kinh doanh ở trong nước và sự suy giảm tăng trưởng kinh tế. Khi tham gia TPP, thách thức sẽ có thêm từ việc giảm thuế nhập khẩu. Vì vậy, việc tăng quy mô xuất nhập khẩu sẽ được bù đắp bằng thu từ thuế giá trị gia tăng (loại thuế không phải xoá bỏ trong FTA). Một thách thức khác đối với chúng ta là việc chính phủ không can thiệp với các doanh nghiệp nhà nước để có sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Việc lao động tay nghề đã tới hạn và cải cách hệ thống ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp cũng là hai vấn đề vướng mắc Việt Nam gặp phải trong giai đoạn hiện nay cần sớm chấn chỉnh để gia nhập vào đấu trường cạnh tranh quốc tế. Vấn đề quy định đấu thầu cũng đáng xem xét, khi gia nhập sân chơi TPP việc đấu thầu không được chỉ định, cũng không có sự ưu tiên với doanh nghiệp trong nước mà sẽ đấu thầu công khai, minh bạch và doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó trúng thầu do vốn và đội ngũ chuyên môn của chúng ta yếu kém hơn so với các nước khác. TPP là mô hình mới về hợp tác kinh tế, vừa có tính toàn diện, vừa có mức độ cam kết sâu. Vì thế, tận dụng được cơ hội để hạn chế và vượt qua thách thức sẽ tạo ra kỳ vọng mới. Chương 4: Một số giải pháp và kiến nghị Trong số 12 quốc gia tham gia TPP, Việt Nam là nước kém phát triển nhất nhưng phải thực hiện các cam kết bình đẳng, không phân biệt đối xử trên nguyên tắc “có đi, có lại”. Muốn trở thành đối tác TPP, Việt Nam buộc phải thực hiện nhiều cải cách, đó là: Thứ nhất, Việt Nam phải tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tài sản trí tuệ là tiền, là nguồn lực tài chính của doanh nghiệp và quốc gia. Thương hiệu một mặt hàng có giá trị hàng tỷ USD, đó là một gia tài lớn, cần được bảo vệ chặt chẽ. Vì vậy, bảo hộ tài sản trí tuệ là nghĩa vụ của mọi quốc gia trong thời đại kinh tế tri thức. Nếu không bảo vệ được tài sản trí tuệ, sẽ không có các ý tưởng khoa học, phát minh, sáng chế, không thể phát triển khoa học và công nghệ. Yêu cầu đặt ra với Việt Nam là phải có những chế tài đủ mạnh nhằm chặn đứng nạn vi phạm quyền sở hữu trí tuệ để tăng cường hội nhập quốc tế. Thứ hai, Việt Nam phải cải cách luật lao động để đạt được chuẩn mực do các thành viên TPP đưa ra. Đó là các quyền thương lượng giữa công đoàn và giới chủ, quyền thành lập nghiệp đoàn. Đây là những vấn đề rất nhạy cảm và rất khó tìm được tiếng nói chung do thể chế chính trị của Việt Nam còn có sự khác biệt với các nước thành viên TPP. Thứ ba, Việt Nam phải thực hiện các bước đi để các thành viên còn lại trong TPP thừa nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Hiện có 8 nước trong TPP đã công nhận. Ba nước còn lại là Hoa Kỳ, Canada và Mexico thì chưa. Nghịch lý ở chỗ, đây lại là những đối tác thương mại rất quan trọng của Việt Nam, nhất là Hoa Kỳ, thị trường lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là thị trường xuất khẩu chủ chốt của Việt Nam. Việc Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường là một thách thức lớn. Vì rằng, để được Hoa Kỳ công nhận là nước có nền kinh tế thị trường, những tiêu chí mà Hoa Kỳ đưa ra rất khắt khe. Đó là khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam; các quyền lao động được quốc tế chấp nhận như tự do thảo thuận mức lương; đầu tư nước ngoài; sở hữu và sự kiểm soát của nhà nước đối với các tư liệu sản xuất; kiểm soát của nhà nước với sự phân bố các nguồn lực và các nhân tố khác. Trong quan hệ kinh tế thương mại với Hoa Kỳ, giả định rằng nếu Việt Nam là thành viên của TPP nhưng chưa được Hoa Kỳ công nhận là nền kinh tế thị trường, TPP cũng không giúp gì cho Việt Nam loại bỏ các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp mà Hoa Kỳ đang áp dụng. Nguy cơ Hoa kỳ điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp trong tương lai vẫn sẽ xảy ra. Hoa Kỳ sẽ tiếp tục áp dụng phương pháp cho nền kinh tế phi thị trường đối với Việt Nam trong các vụ kiện chống bán phá giá cho tới khi Việt Nam đạt được các tiêu chuẩn kinh tế thị trường theo cách tiếp cận của Hoa Kỳ. Điều này gây phương hại rất lớn cho hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị trường lớn nhất thế giới. Thứ tư, Việt Nam phải giải quyết các vấn đề về doanh nghiệp nhà nước, cạnh tranh, mua sắm công theo chuẩn mực mà các đối tác TPP đưa ra. TPP là một khu vực tự do thương mại hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Nguyên tắc này đòi hỏi thị trường phải thông thoáng, cởi mở, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử. Đó là những tiêu chí đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh và bền vững. Tham gia vào TPP, Việt Nam phải xoá bỏ sự phân biệt đối xử, áp dụng luật chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cả trên thị trường lẫn trong lĩnh vực mua sắm công (trừ lĩnh vực an ninh, quốc phòng). Mọi doanh nghiệp được bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực, tài nguyên, vốn, thị trường. Doanh nghiệp nhà nước vẫn tồn tại, nhưng kinh doanh phải công khai, minh bạch, phải bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Từ khi ra nhập WTO đến nay, Việt Nam vẫn chưa kiến tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chấp nhận vào TPP, Việt Nam phải sửa đổi nhiều văn bản pháp luật hiện hành và quan trọng hơn, phải đổi mới cả phương thức quản lý, điều hành nền kinh tế. Sau cùng, Việt Nam phải tiếp tục xử lý nguồn gốc xuất xứ hàng hoá xuất khẩu giữa các thành viên TPP. Theo điều khoản về xuất xứ hàng hóa được đề xuất ở TPP, các sản phẩm xuất khẩu trong các nước thành viên phải có xuất xứ nội khối mới được hưởng thuế suất ưu đãi 0%. Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam. Nếu so sánh quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc và Hoa Kỳ, cán cân thương mại hai chiều của Việt Nam và Hoa Kỳ so với Trung Quốc tuy kém hơn, nhưng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Mỹ có thặng dư lớn. Hoa Kỳ mang lại cho xuất siêu của Việt Nam lên tới hơn 10% GDP- tương đương khoảng 14,8 tỷ USD/ tổng GDP là 138,1 tỷ USD năm 2012. Trong khi đó, Việt Nam nhập siêu với Trung Quốc chiếm hơn 11,5% GDP, tương đương 16 tỷ USD/138,1 tỷ USD. Hai lĩnh vực xuất khẩu chủ lực từ Việt Nam sang Hoa Kỳ là hàng may mặc, giày da và nông hải sản. Về thuận lợi, hàng nông hải sản của Việt Nam tự sản xuất tương đối tốt. Trở ngại cần phải vượt qua là việc sử dụng phân bón, thức ăn và thuốc bảo vệ thực vật cho đúng cách để vượt qua hàng rào kiểm soát của FDA (Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ). Quy định đó đặt ra cho các nhà khoa học, nhà nước và người nông dân phải có trách nhiệm tổ chức, phối hợp với nhau để có quy trình sản xuất hợp chuẩn. Trong lĩnh vực xuất khẩu hàng may mặc và giày da, Việt Nam còn vướng mắc ở khâu nguyên liệu sản xuất. Cho đến nay, ngành may mặc và giày da của Việt Nam bị lệ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu. Trong hơn 20 năm qua, các doanh nghiệp FDI đã làm cho các doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may và da giày trong nước không thể phát triển bằng cách nhập nguyên phụ liệu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2013, nhập khẩu nguyên liệu cho ngành may mặc và da giày của Việt Nam từ Trung Quốc là 36%; Hàn Quốc 18%; Đài Loan 15%; Hồng Kông là 4% các nước khác là 18%. Trong khi đó, 2 đối tác trong TPP tương lai là Nhật Bản và Hoa Kỳ chỉ chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn là 5% và 4%. Nếu tình trạng này không được cải thiện, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các đối tác TPP sẽ không được hưởng ưu đãi thuế quan 0%, trước hết là hàng may mặc và da giày. Điều này rất bất lợi cho Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtpp_0321.docx