Chính phủ là cơ quan tập thể có thẩm quyền chung thực hiện việc quản lý
hoạt động điều hành và thừa hành (hoạt động hành chính) trong phạm vi cả
nước.
Định nghĩa trên không hoàn toàn phù hợp với những nước có chính thể cộng
hòa tổng thống hay chính thể quân chủ nhị nguyên như:
Achentina,Mỹ,Philippin.Vênêxuêla,Góocđani.Ở những nước này quyền lãnh
đạo hoạt động hành chính không phải do một cơ quan tập thể đảm nhiệm mà
tập trung vào tay cá nhân Tổng thống hay Nhà vua. Ví dụ, nước Mỹ không có
chính phủ theo nghĩa nói trên. Các Bộ trưởng của bộ máy hành pháp trực thuộc
trực tiếp Tổng thống. Dưới Tổng thống thành lập Nội các nhưng đây không
phải là cơ quan tập thể,Nội các không trực tiếp thông qua quyết định mà chỉ
thảo luận những vấn đề được đưa ra nhằm tư vấn giúp Tổng thống.
48 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 841 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Hiến pháp tư sản - Chương 6: chính phủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính phủ, các quan tòa), nhưng ở đây
chủ yếu nói tới quy trình luận tội đối với nguyên thủ quốc gia.
Hộp: Thẩm quyền của Tòa án hiến pháp Hàn Quốc
Từ khi được thành lập năm 1988 đến 2009, Tòa án hiến pháp Hàn Quốc thụ lý
gần 17500 vụ, trong đó khoảng 94% vụ liên quan đến khiếu kiện về các quyền
hiến định theo quy định của Điều 68, Luật về Tòa án hiến pháp; 598 vụ về tính
hợp hiến của các quy định pháp luật; 61 vụ về tranh chấp thẩm quyền giữa các
cơ quan nhà nước; và chỉ có 1 vụ về luận tội Tổng thống.
4.2. Xác định thẩm quyền
Mỗi mô hình cơ quan bảo hiến có phương thức xác định thẩm quyền của mình.
Dưới đây xin trình bày thẩm quyền của cơ quan bảo hiến theo từng mô hình:
mô hình Mỹ, mô hình châu Âu, mô hình hỗn hợp.
4.2.1. Mô hình Mỹ
Theo mô hình Mỹ cổ điển, hoạt động bảo hiến không tách rời khỏi hệ thống toà
án nói chung. Tại đây không có dạng vụ việc đặc biệt về các vấn đề hiến định,
chúng có thể có mặt ở bất cứ vụ việc nào, cho dù đó là vụ hình sự, dân sự,hành
chính, và được phán xét ở các toà có thẩm quyền chung, theo một trình tự
chung. Hiến pháp và các luật về tổ chức toà án chỉ xác định thẩm quyền chung,
109
chứ không xác định thẩm quyền về các vụ việc hiến pháp (mặc dầu ở các nhà
nước liên bang những tranh chấp giữa liên bang và các chủ thể liên bang và
giữa các chủ thể liên bang với nhau được quy định riêng). Theo mô hình Mỹ,
bất kỳ tòa án liên bang nào cũng có thẩm quyền xem xét, phán quyết về các
vấn đề hiến pháp liên bang.
Như vậy, tại những nước này luật pháp không xác định cụ thể phạm vi thẩm
quyền của các toà có thẩm quyền chung trong lĩnh vực hiến pháp. Phạm vi đó
phụ thuộc vào tính chất của vụ việc được xem xét và trong nhiều trường hợp –
vào sự suy xét của toà. Toà án có thể né tránh không xem xét các vấn đề hiến
pháp do những nguyên nhân khác nhau. Ví dụ như Toà án tối cao Hoa Kỳ lập
nên một số nguyên tắc hạn chế thẩm quyền của Toà trong lĩnh vực hiến pháp.
Một trong những nguyên tắc đó là từ chối xem xét những vấn đề “có tính chất
chính trị”. Đó là những vấn đề đả động đến chính sách ngoại giao, chiến tranh,
vị trí pháp lý của các bộ lạc da đỏ. Như thực tiễn cho thấy nguyên tắc này được
Toà án tối cao sử dụng để “tránh né việc xem xét những xung đột về hiến pháp
mà Toà không muốn bị lôi kéo vào đó vì những lý lẽ khác nhau”.[27]
Tại những nước theo mẫu của Mỹ nhưng được cải biên, trong các quy định của
pháp luật có những điều khoản về thẩm quyền giải quyết một số vấn đề của
hiến pháp: giải thích hiến pháp; bảo vệ các quyền và tự do hiến định; giám sát
bầu cử; tư vấn về các vấn đề pháp lýTại các nhà nước liên bang còn bổ sung
thêm tranh chấp giữa liên bang và các chủ thể của liên bang. Việc quy định
trong hiến pháp về thẩm quyền bảo hiến của các toà có thẩm quyền chung tại
những nước đó đã mang lại cho các toà này tính rõ ràng hơn so với mô hình
Mỹ cổ điển. Điều này cũng một phần nào đó xích gần mô hình cải biên với mô
hình châu Âu.
4.2.2. Mô hình châu Âu
110
Thẩm quyền của các cơ quan bảo hiến chuyên trách theo mô hình châu Âu giới
hạn trong việc chỉ xem xét những vụ việc liên quan đến hiến pháp. Ở các nước
có tòa án hiến pháp, chỉ có tòa này mới có thẩm quyền phán xét về các vấn đề
hiến pháp. Trên thực tế, ví dụ ở Đức, Áo, Nga, không hiếm khi tòa có thẩm
quyền chung tạm dừng và chuyển vụ việc mà tòa đang xét xử đến Tòa án hiến
pháp để Tòa án Hiến pháp xem xét vấn đề hiến pháp; sau khi Tòa án Hiến pháp
có phán quyết về vấn đề hiến pháp, tòa có thẩm quyền chung mới tiếp tục xét
xử vụ việc.
Tòa án hiến pháp cũng chỉ xem xét các vấn đề hiến pháp, mà không xem xét
các vấn đề thuộc các lĩnh vực pháp luật khác. Phán quyết của Tòa án hiến pháp
có tính chất chung thẩm chỉ đối với vấn đề hiến pháp. Do tính chất này, mô
hình Tòa án hiến pháp chuyên trách không có ảnh hưởng lớn đối với các ngành
khác của hệ thống pháp luật như Tòa án Tối cao ở Mỹ hay Úc, Canada. Mặt
khác, đây là một trong những ưu thế của mô hình châu Âu so với mô hình Mỹ,
bởi lẽ nhờ đó mà cơ quan bảo hiến chuyên trách không phải đồng thời giải
quyết những vấn đề chuyên môn hẹp nhiều lúc rất phức tạp về dân sự, hình
sự và chỉ tập trung vào khía cạnh hiến pháp trong những vụ việc được xem
xét.
Ở các nước theo mô hình này, trong việc pháp luật quy định thẩm quyền của cơ
quan bảo hiến có hai cách tiếp cận:
i) Ở phần lớn các nước, hiến pháp liệt kê đầy đủ, cụ thể những quyền hạn của
cơ quan bảo hiến và danh mục đó được lặp lại trong luật tương ứng về cơ quan
bảo hiến. Như vậy, không một đạo luật nào, kể cả luật nói trên không thể thay
đổi thẩm quyền của cơ quan bảo hiến bằng cách mở rộng hay thu hẹp danh
mục về những quyền hạn đã được hiến pháp thiết lập. Nói cách khác, việc thay
đổi thẩm quyền của cơ quan bảo hiến ở những nước này chỉ có thể bằng cách
thay đổi những điều khoản thích hợp trong hiến pháp. Một số nhà lý luận cho
111
rằng điều đó bảo đảm tính ổn định cho vị trí pháp lý của cơ quan bảo hiến, bởi
lẽ nhà lập pháp không thể thay đổi cốt lõi của vị trí pháp lý của cơ quan bảo
hiến bằng thủ tục thông thường. Tác giả Favoreu L. còn phát biểu một cách
triệt để hơn: “Bất cứ một định chế nào mà sự tồn tại, hoạt động hay các thẩm
quyền của nó có nguy cơ bị thay đổi bởi nhà lập pháp hay chính phủ đều không
thể được xem xét như toà án hiến pháp, còn với bình diện rộng hơn như hoạt
động bảo hiến”.
Tuy nhiên, một số nước thuộc nhóm này không phải mọi lúc đều theo đuổi
nguyên tắc nói trên một cách triệt để. Ví dụ, CH Pháp, nơi mà thẩm quyền của
Hội đồng bảo hiến được mở rộng bằng các đạo luật, thậm chí bằng các sắc lệnh
và bởi bản thân Hội đồng.
ii) Ở một số nước, hiến pháp không liệt kê danh mục các thẩm quyền của cơ
quan bảo hiến, chúng có thể được bổ sung hoặc thu hẹp bằng đạo luật (Tây Ban
Nha, Séc, Đức). Ví dụ như ở Tây Ban Nha Toà án hiến pháp có thể đưa ra các
phán quyết về những vấn đề không chỉ được quy định trong Hiến pháp, mà còn
trong các đạo luật. Hay Đạo luật cơ bản của CHLB Đức quy định Toà án Hiến
pháp hành động “trong những trường hợp do luật pháp liên bang chỉ ra” (Điều
93, Phần 2). Ngược lại, ở CH Séc luật có thể quy định những trường hợp mà
theo đó Toà án Hành chính tối cao có thể thay Toà án Hiến pháp giải quyết một
số vấn đề thuộc hiến pháp.
4.2.3. Mô hình hỗn hợp
Mô hình hỗn hợp kết hợp cả hai phương thức xác định thẩm quyền của các cơ
quan bảo hiến. Tại các toà án bình thường, hoạt động bảo hiến không tách rời
khỏi hoạt động xét xử truyền thống, còn các cơ quan bảo hiến chuyên trách
theo hình mẫu châu Âu có thẩm quyền xét xử về những vấn đề hiến pháp riêng
biệt đã được quy định trong hiến pháp và các luật ( Bồ Đào Nha, Nam Phi, Hy
Lạp). Một vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là phân định thẩm quyền giữa toà
112
hiến pháp và các toà bình thường về các vấn đề hiến pháp. Ví dụ điển hình là
các quy định của Hiến pháp Nam Phi 1994 về thẩm quyền của Toà án hiến
pháp, Toà án Tối cao và các bộ phận của Toà này ở các tỉnh, các toà cấp dưới
khác.
5- GIÁM SÁT TÍNH HỢP HIẾN CỦA VĂN BẢN PHÁP LUẬT
5.1- Đối tượng giám sát
Đối tượng của giám sát bảo hiến là những văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền
xem xét của cơ quan bảo hiến. Tùy thuộc vào phạm vi hiến định của cơ quan
bảo hiến được xem xét những văn bản nào mà người ta phân biệt giám sát tổng
thể và giám sát có giới hạn. Đối với loại thứ nhất không hề có sự giới hạn đối
tượng, mọi dạng văn bản pháp luật đều thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan
bảo hiến (luật, văn bản của nguyên thủ quốc gia, của nhánh hành pháp, của
chính quyền địa phương). Đối với loại thứ hai luật pháp quy định cụ thể những
dạng văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan bảo hiến.
Thông thường người ta cho rằng giám sát tổng thể tiêu biểu cho mô hình Mỹ,
còn giám sát có giới hạn – cho mô hình Châu Âu. Nhưng hiện nay sự phân biệt
đó không còn rõ ràng như vậy nữa: ngày càng rõ nét xu hướng mở rộng đối
tượng giám sát ở các nước theo mô hình Châu Âu, ngày càng có nhiều hơn các
dạng văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan bảo hiến, trong
đó đặc biệt có ý nghĩa là các văn bản trong lĩnh vực lập pháp uỷ quyền. Trên
phương diện này, có thể nói đã có sự xích lại gần hơn giữa hai mô hình.
5.2. Các dạng giám sát tính hợp hiến
Để phân loại các dạng giám sát tính hợp hiến, có thể dựa trên nhiều tiêu chí
khác nhau: thời điểm tiến hành giám sát, tính chất giám sát, giám sát hình thức
hay nội dungTrong bài viết này xin tập trung vào hai dạng giám sát.
5.2.1. Theo thời điểm tiến hành giám sát
113
Người ta phân biệt hai hình thức giám sát tính hợp hiến theo thời điểm giám
sát: giám sát trước và giám sát sau. Hình thức thứ nhất là kiểm tra tính hợp
hiến của văn bản pháp luật trước khi thông qua, công bố hoặc có hiệu lực, hình
thức thứ hai – kiểm tra tính hợp hiến của những văn bản pháp luật đang có hiệu
lực.
Giám sát trước
Trước hết, hình thức giám sát này hạn chế việc thông qua những văn bản
không hợp hiến. Ngoài ra, bằng hình thức này có thể tránh được việc huỷ bỏ
những văn bản liên quan đã được ban hành trên cơ sở văn bản không hợp hiến
và như vậy bảo đảm sự ổn định của lập pháp, hạn chế lãng phí về thời gian,
tiền của, công sức.
Chố yếu lớn nhất của hình thức giám sát trước là nó tạo điều kiện cho cơ quan
bảo hiến can thiệp vào công việc lập pháp của Nghị viện, mà điều này lại chứa
nguy cơ tiềm ẩn chính trị hoá cơ quan bảo hiến. Ngoài ra, nếu ở một nước chỉ
có giám sát trước, trong quá trình áp dụng pháp luật phát hiện thấy tính không
hợp hiến thì văn bản đó vẫn không bị huỷ bỏ vì không có quy trình để huỷ bỏ
và vẫn được coi là hợp hiến.
Giám sát sau
Nhược điểm của giám sát trước lại là ưu điểm của giám sát sau và ngược lại.
Không can thiệp vào quá trình lập pháp, khả năng kiểm tra tính hợp hiến của
văn bản pháp luật có tính đến thực tế áp dụng của toà án và các cơ quan hành
chính (mà điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ các quyền và tự do
hiến định) – những đặc điểm này tạo nên ưu thế chính của giám sát sau.
Việc áp dụng hai hình thức này ở các nước
Tại những nước theo mô Mỹ cổ điển không có hình thức giám sát trước. Ở
những nước theo mô hình Mỹ cải biên hình thức này được áp dụng có giới hạn
và phần lớn mang tính chất tư vấn, theo yêu cầu của nguyên thủ quốc gia.
114
Các nước theo mô hình châu Âu chủ yếu dùng hình thức giám sát sau. Giám
sát trước được áp dụng rất hạn chế, chỉ trong những trường hợp như: đối với
những điều ước quốc tế chưa có hiệu lực nhằm tranh xung đột pháp luật giữa
luật quốc tế và nội luật; khi có tranh chấp về thẩm quyền lập pháp mà đối
tượng tranh chấp là các văn bản luật
Tại Pháp và một số nước nói tiếng Pháp lại chỉ áp dụng hình thức giám sát
trước và chủ yếu trước khi Tổng thống ký công bố.
Bên cạnh đó có xu hướng áp dụng cả hai hình thức. Ví dụ ở Bồ Đào Nha các
toà thẩm quyền chung thực hiện giám sát sau, còn Toà án Hiến pháp áp dụng
cả hai hình thức.
5.2.2. Giám sát trừu tượng và giám sát cụ thể
Khái niệm chung
Giám sát trừu tượng – cơ quan bảo hiến xem xét tính hợp hiến của văn bản
pháp luật không liên quan đến vụ việc cụ thể hay quyền lợi cụ thể. Lý do để
tiến hành sự kiểm tra như vậy là bất kỳ sự nghi ngờ nào về tính hợp hiến của
văn bản pháp luật. Những chủ thể nào có quyền đề nghị giám sát trừu tượng ?
Thông thường đó là các cơ quan nhà nước và các quan chức, nghị sỹ. Nhưng ở
một số nước công dân và hiệp hội của họ cũng có quyền đề nghị cơ quan bảo
hiến giám sát trừu tượng. Ở hầu hết các nước có hệ thống này, Hiến pháp quy
định chỉ một số chủ thể như Tổng thống, Chủ tịch hai viện của nghị viện, hoặc
một số lượng nghị sỹ nhất định mới có quyền đề nghị Tòa án hiến pháp xem
xét tính hợp hiến của văn bản pháp luật (Ví dụ như Hiến pháp LB Nga, điều
125(2). Nhưng cũng có số ít nước như Hungary, Hiến pháp trao cho cá nhân
công dân quyền này (Hiến pháp Hungary, điều 32A(3). Nếu cho rằng luật, điều
luật trái Hiến pháp, Tòa án hiến pháp sẽ tuyên hủy bỏ luật, điều luật đó; hoặc
buộc nghị viện hoặc chính phủ chỉnh lý trong một thời gian nhất định. Như
115
vậy, các phán quyết của Tòa án hiến pháp hướng đến chính phủ, chứ không chỉ
đơn thuần các bên kiện tụng.
Giám sát cụ thể – cơ quan bảo hiến kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp
luật liên quan đến một vụ việc cụ thể bảo vệ lợi ích cụ thể. Chủ thể có quyền đề
nghị tiến hành giám sát bảo hiến ở đây chủ yếu là các pháp nhân và thể nhân.
Áp dụng các dạng giám sát
Việc áp dụng hai dạng giám sát này khác nhau ở các nước. Mô hình Mỹ cổ điển
chỉ áp dụng giám sát cụ thể, do các toà có thẩm quyền chung thực hiện trong
quá trình xét xử các vụ án hình sự và dân sự. Các nước mô hình Mỹ cải biên áp
dụng có giới hạn giám sát trừu tượng (chủ yếu cùng với việc ra đời chế định
thanh tra Quốc hội).
Đối với các nước mô hình châu Âu và mô hình hỗn hợp (ngoài Pháp và một số
nước châu Phi nói tiếng Pháp chỉ áp dụng giám sát trừu tượng), hai dạng giám
sát nói trên được kết hợp với nhau. Trong đó giám sát cụ thể có hai trường hợp:
i) Toà án thẩm quyền chung dừng xét xử vụ án khi cho rằng quy phạm cần áp
dụng không hợp hiến và chuyển kiến nghị lên cơ quan bảo hiến về việc kiểm
tra tính hợp hiến của quy phạm đó. Toà có thể chủ động làm điều này hoặc
theo yêu cầu của một bên tranh chấp. Trường hợp này phổ biến hơn trường hợp
thứ hai;
ii) Cơ quan bảo hiến kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp luật trong quá
trình xem xét đơn khiếu kiện về quyền con người. Một mặt, có thể coi đây
không phải là giám sát cụ thể, bởi lẽ tính hợp hiến của văn bản pháp luật là
vấn đề phát sinh ra khiếu kiện bảo hiến, chứ không phải phái sinh từ khiếu kiện
bảo hiến. Nhưng mặt khác, ở đây nói đến việc bảo vệ những quyền lợi cụ thể –
những quyền chủ quan của công dân. Và như vậy, trên bình diện này đó lại là
giám sát cụ thể.
116
Lợi thế của việc kết hợp: Kết hợp cả hai dạng giám sát nói trên là giải pháp tối
ưu, bởi lẽ cho phép cơ quan bảo hiến “dung hoà giữa bảo vệ các quyền của
công dân và bảo vệ tính thống nhất của hệ thống pháp luật, trong đó có cả tính
tối cao của Hiến pháp”. Như vậy nó nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
này trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chính của tư pháp bảo hiến.
Thực tiễn hoạt động của toà án hiến pháp nhiều nước châu Âu cho thấy giám
sát cụ thể chiếm khối lượng chính trong công việc của những toà này, đặc biệt
ở Đức, Áo, Italia. Ví dụ như Toà án Hiến pháp Liên bang Đức từ năm 1953
đến 1984 chỉ có 82 phán quyết theo trình tự giám sát trừu tượng, nhưng có tới
2200 – theo trình tự giám sát cụ thể, còn Toà án Hiến pháp Italia từ 1948-1976
là 406 và 5761.
5.3. Hệ quả pháp lý của giám sát tính hợp hiến
5.3.1. Tính chất bắt buộc của phán quyết
Trừ một số trường hợp, phán quyết của cơ quan bảo hiến về tính hợp hiến của
văn bản pháp luật có tính chất bắt buộc. Và ở đây có sự khác biệt giữa các mô
hình:
Theo mô hình Mỹ
Phán quyết của toà có thẩm quyền chung chỉ bắt buộc đối với các bên tham gia
một vụ việc cụ thể liên quan đến kiểm tra tính hợp hiến. Bên cạnh đó, ở các
nước thông luật, phán quyết của toà án tối cao có tính bắt buộc đối với các toà
cấp dưới (nhưng không nhất thiết bắt buộc đối với các phán quyết của chính
toà án tối cao và toà có thể huỷ bỏ phán quyết trước đó của mình. “Toà án Tối
cao – Hiến pháp Ấn Độ quy định trong Điều 137- có quyền xem xét lại bất kỳ
phán quyết hoặc lệnh của Toà đưa ra trước đó”. Trong một phán quyết của
mình, Toà án Tối cao Ấn Độ cũng bày tỏ quan điểm: “Hiến pháp Ấn Độ không
cấm Toà huỷ bỏ phán quyết trước đó nếu Toà tin chắc rằng phán quyết sai trái
và sẽ gây ra những hậu quả tai hại cho các quyền lợi xã hội”.
117
Mô hình châu Âu và mô hình hỗn hợp
Theo mô hình này, phán quyết của cơ quan bảo hiến về tính hợp hiến của văn
bản pháp luật có tính chất bắt buộc chung đối với mọi đối tượng, có tính chung
thẩm, không được khiếu kiện. Những văn bản được coi là không hợp hiến sẽ bị
huỷ bỏ và điều này được quy định rõ ràng trong luật pháp.
Tuy nhiên, trên thực tế, khác biệt nói trên giữa hai mô hình không đến nỗi lớn
lắm, nhất là ở những nước có truyền thống lâu đời và vững chắc trong lĩnh vực
này. Nếu toà án tối cao ở những nước như Mỹ, Canada, Na Uy cho rằng một
đạo luật không hợp hiến, về hình thức đạo luật đó vẫn tiếp tục có hiệu lực,
nhưng không một toà nào sẽ áp dụng nó nữa. Như vậy, đạo luật không còn
được toà án bảo vệ, sẽ không còn hiệu lực pháp lý thực tế. Do đó, mặc dầu về
lý thuyết phán quyết của toà án tối cao không bắt buộc chung cho mọi đối
tượng, nhưng không một cơ quan hành chính nào sẽ áp dụng nó, bởi lẽ sẽ vô
ích: quyết định hành chính có thể bị khiếu kiện lên toà, mà đối với toà, đạo luật
mà cơ quan hành chính dựa vào đã không còn tồn tại. Và thông thường Nghị
viện sẽ nhanh chóng huỷ bỏ đạo luật đó.
6. LỰA CHỌN CHO VIỆT NAM
Dường như ở Việt Nam không còn tranh luận về sự cần thiết thành lập cơ chế
bảo hiến nữa, nhất là khi đã có những tuyên bố, quy định của Hiến pháp và
pháp luật về nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của Hiến pháp v.vTừ cấp
cao nhất là văn kiện của Đảng Cộng sản ViệtNamđã có chủ trương nghiên cứu
thành lập cơ chế này. Ý nghĩa, tầm quan trọng của nó đã được thừa nhận. Như
vậy, có thể nói, ViệtNamđã có sự lựa chọn giữa không và có trong việc thành
lập cơ chế bảo hiến.
Vấn đề cần phải bàn nhiều hiện nay là lựa chọn mô hình bảo hiến nào ở
ViệtNam. Tác giả bài viết này chưa đề xuất một mô hình cụ thể đối với Việt
Nam, vì không đủ tự tin, nhận thấy thiết lập cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện
118
nay quá khó. Trước khi lựa chọn mô hình thích hợp cho ViệtNam, cần phải giải
đáp sáng rõ vài băn khoăn liên quan đến việc áp dụng cơ chế bảo hiến vào
ViệtNam.
Trước hết, cần làm rõ sự tương thích của cơ chế bảo hiến với nguyên tắc thống
nhất quyền lực ở Việt Nam. Có tác giả đề xuất cần nhìn nhận vấn đề một cách
linh hoạt hơn: khi Hiến pháp đã được đặt ở hệ cấp tối thượng thì tất cả các định
chế quyền lực đều dưới Hiến pháp, kể cả Quốc hội. Vấn đề thống nhất quyền
lực chỉ còn là vấn đề không tạo ra một cơ chế mâu thuẫn, đối trọng giữa Quốc
hội và Chính phủ như: Chính phủ không được yêu cầu giải tán Quốc hội, và
Quốc hội cũng không được lật đổ Chính phủ, Chính phủ không được từ chức
tập thể. Trong bối cảnh nhận thức như vậy về thống nhất quyền lực, tài phán
hiến pháp không mâu thuẫn với nguyên tắc căn bản này của việc tổ chức quyền
lực nhà nước ở ViệtNam. Ngược lại, cũng không ít ý kiến cho rằng, cơ chế bảo
hiến không phù hợp với nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước.
Hơn nữa, nếu không mâu thuẫn với nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất,
vậy vị thế của cơ quan bảo hiến ở đâu? Chẳng hạn, đối với mô hình tòa án bảo
hiến chuyên trách, một số nhà nghiên cứu giải thích tại sao mô hình này lan
truyền rộng rãi như vậy trên thế giới, nhất là sau khi có thay đổi đột biến về
chính trị-xã hội. Theo họ, bối cảnh lúc ra đời mô hình này thôi thúc các nước
phải thành lập một thiết chế kiểm soát quyền lực đứng ngoài lập pháp, hành
pháp và đặc biệt là đứng ngoài tư pháp. Thực tế này đặt ra một số câu hỏi đối
với ViệtNam như: liệu bối cảnh hiện nay đã đến độ phải có một thiết chế kiểm
soát quyền lực như vậy hay chưa? Nếu có, thiết chế đó đứng ngoài như thế nào
để hoạt động được? v.v
Băn khoăn thứ hai liên quan đến năng lực để thực hiện cơ chế bảo hiến. Như đã
thấy, thẩm phán cơ quan bảo hiến ở các nước phải là những người có uy tín rất
cao về chuyên môn luật và đạo đức; đó là những chuyên gia hàng đầu trong
119
giới luật. Không những thế, năng lực của cơ quan bảo hiến còn phải được bảo
đảm bằng những yếu tố hỗ trợ như bộ máy, con người, thư ký, thông tin
v.vỞ Việt Nam, dường như tiêu chí chuyên môn nhiều khi nhường chỗ cho
yếu tố chính trị, có thể ảnh hưởng đến yếu tố chuyên môn của công tác bảo
hiến. Mặc dù cơ chế bảo hiến ở các nước không phải không liên quan đến
chính trị, nhưng cơ bản nó mang tính chuyên môn pháp lý rất cao. Hơn nữa,
đây lại là cơ chế rất mới ở ViệtNam, vì vậy yếu tố năng lực càng cần được chú
trọng.
Băn khoăn thứ ba về tính độc lập của cơ chế bảo hiến, dù đó là Tòa án bảo
hiến, Tòa án tối cao, hay là một mô hình khác. Qua các phần trình bày trên, có
thể thấy cần có những yếu tố để bảo đảm sự độc lập này như: cách thức thành
lập, bổ nhiệm thẩm phán, nhất là chánh án, nguồn lực v.vMột nghiên cứu về
hai chánh án nổi tiếng của Tòa án hiến pháp LB Nga và Hungary đầu những
năm 1990 cho thấy, hai chánh án này luôn giữ được sự độc lập trước các sức ép
khác nhau trong bối cảnh chính trị phức tạp. Đó là nhờ các yếu tố nói trên,
cộng với phẩm chất cá nhân của hai thẩm phán. Mà các phẩm chất đó là của
những cá nhân được chọn lựa một cách đúng đắn nhờ một quy trình minh bạch.
Bên cạnh đó, ở Việt Nam, liên quan đến tính độc lập, một trong những yếu tố
hết sức quan trọng là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với các thiết chế nhà
nước như cơ quan bảo hiến. Đã có khá nhiều ý kiến, trong đó có những ý kiến
của các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản qua các thời kỳ về việc
không nên để xảy ra tình trạng Đảng bao biện làm thay công việc của Quốc
hội, của Chính phủ, không đặt Quốc hội trước sự đã rồi. Cũng như vậy, đối với
hoạt động của cơ quan bảo hiến sau này, đây là yếu tố hàng đầu bảo đảm sự
độc lập của cơ quan này.
Băn khoăn thứ tư liên quan đến nhu cầu sử dụng cơ chế bảo hiến. Như đã nói,
mặc dù trong những năm gần đây, sự cần thiết thành lập cơ chế bảo hiến không
120
còn là vấn đề tranh luận nhiều, nhưng khi đã thành lập, nhu cầu sử dụng cơ chế
bảo hiến sẽ ở mức độ nào? Có cao không? Hay là thành lập ra nhưng chỉ xét xử
mỗi năm vài vụ? Tâm lý chung của xã hội, người dân và các chủ thể công ở
ViệtNamđều ngại ra tòa nói chung, chứ chưa nói đến một thiết chế hoàn toàn
mới lạ như cơ quan bảo hiến.
Băn khoăn thứ năm liên quan đến sự phân định giữa cơ quan bảo hiến và
những thiết chế hiện có ở Việt Namđể thực hiện kiểm soát tính hợp hiến của
các văn bản quy phạm pháp luật như thẩm định, thẩm tra. Khi tìm hiểu các sự
lựa chọn đối với các nước về mô hình bảo hiện, một số nhà nghiên cứu cũng đã
đề cập đến những thiết chế có tính chất tư vấn như các cơ quan quốc gia phụ
trách quyền con người, Thanh tra nghị viện, các Ủy ban thông tin, Ủy ban bầu
cử, Ủy ban về hiến pháp của nghị viện v.v Đây là thông tin đáng chú ý đối
với Việt Nam, khi mà những băn khoăn như đã nói vẫn còn nhiều.
Cuối cùng, dù theo mô hình nào thì mục đích cuối cùng của những cơ quan này
là bảo vệ hiến pháp – đạo luật tối cao của đất nước; bảo đảm nhà nước pháp
quyền. Tính tối thượng của hiến pháp không chỉ bao hàm sự tuân thủ của
những nguồn luật pháp khác, mà còn của tất cả các nhánh khác của quyền lực
nhà nước, trong đó có quyền lập pháp. Hoạt động bảo hiến dù với hình thức
hiến định nào chăng nữa đều thực hiện những nhiệm vụ chung về bảo vệ hiến
pháp: bảo đảm sự ổn định và tối cao của hiến pháp, sự tuân thủ những mối
quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, bảo vệ những quyền và
tự do hiến định của con người.
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình Luật Hiến pháp nước ngoài,
Công an nhân dân, Hà Nội;
2. Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật Hiến pháp
các nước tư bản, ĐHQG Hà Nội;
3. Nguyễn Đăng Dung (2001), Luật Hiến pháp đối chiếu, Tổng hợp Tp. HCM.
4. Lưu Đức Quang (2009), Chương trình và tài liệu môn học Luật Hiến pháp
nước ngoài, Tài liệu lưu hành nội bộ, Tp. HCM;
5. Vũ Hồng Anh (1997), Tổ chức và hoạt động của Chính phủ một số nước
trên thế giới, Chính trị quốc gia (CTQG), Hà Nội;
6. Vũ Hồng Anh (1997), Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới, CTQG,
Hà Nội;
7. Vũ Hồng Anh (2001), Tổ chức và hoạt động của Quốc hội một số nước trên
thế giới, CTQG, Hà Nội;
8. Nguyễn Đăng Dung (2004), Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của
các cơ quan nhà nước, Tư pháp, Hà Nội;
9. Michel Fromont (2006), Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Tư
pháp, Hà Nội;
10. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc
tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Tư pháp, Hà Nội;
11. Khoa luật Hành chính – Trường Đại học Luật Tp. HCM (1999), Báo cáo
khoa học Đề tài cấp Bộ “Thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước các
nước ASEAN”, Tp. HCM;
12. Thang Văn Phúc – Nguyễn Đăng Thành (chủ biên) (2005), Một số lý thuyết
và kinh nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới, CTQG, Hà Nội;
122
13. Đào Trí Úc – Nguyễn Như Phát (chủ biên) (2007), Tài phán Hiến pháp và
vấn đề xây dựng mô hình tài phán Hiến pháp ở Việt Nam (Sách chuyên khảo),
Công an nhân dân, Hà Nội;
14. Văn phòng Quốc hội – Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (2005),
Thiết chế Nghị viện: Những khái niệm cơ bản, Hà Nội;
15. Viện Khoa học Chính trị (2000), Tập bài giảng Chính t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gtkl0010_p2_7205.pdf