Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ theo hướng giảm dần số lượng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Tăng cường trách nhiệm của bộ trưởng trong việc quyết định các vấn đề thuộc chức năng và thẩm quyền của bộ. Thủ tướng tập trung vào việc chỉ đạo, phối hợp công việc giữa các bộ, giải quyết các vấn đề vượt khỏi thẩm quyền của bộ trưởng và trực tiếp nắm các vấn đề lớn như lập quy, kế hoạch, ngân sách, tổ chức và nhân sự hành chính cấp cao.
Bộ có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với toàn ngành hoặc lĩnh vực được phân công trong phạm vi cả nước. Xác định rành mạch, cụ thể trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của bộ và của chính quyền địa phương phù hợp với tính chất, đặc điểm từng ngành, từng lĩnh vực. Trên cơ sở đó, quy định tổ chức bộ máy ở trung ương và các cấp với quy chế hoạt động thích hợp với từng ngành, từng lĩnh vực.
25 trang |
Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1113 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Hệ thống hành chính Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á trình nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới được khởi đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986. Từ xác định những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng, Đại hội VI đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là công tác tổ chức và đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối. Tuy nhiên, nhìn chung tổ chức và biên chế của bộ máy nhà nước vẫn còn quá cồng kềnh, nặng nề. Đến Đại hội VII, Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương. Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này đã tiến hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh đã nêu: về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước”. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tháng 4/1992, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 thể hiện sự nhận thức đầy đủ hơn về phân công, phối hợp giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổng thể quyền lực thống nhất của Nhà nước. Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995 là giai đoạn phát triển mạnh tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) đánh dấu bước phát triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Cải cách một bước nền hành chính nhà nước được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở nước ta. Có thể nói Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII) có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính của 20 năm đổi mới vừa qua. Tiếp tục khẳng định cải cách hành chính là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh yêu cầu tiến hành cải cách hành chính đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 1996-2000. Với tinh thần đẩy mạnh cải cách hành chính được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII) một cách tích cực theo chương trình, kế hoạch, Nghị quyết Đại hội VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành. Theo đó, 4 điểm bổ sung quan trọng trong định hướng cải cách được Nghị quyết đề ra là: - Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính; - Tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá sự phân cấp quản lý nhà nước giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Đổi mới chế độ công chức và công vụ (bao gồm sửa đổi quy chế thi tuyển, bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức, kiên quyết xử lý và sa thải những người thoái hoá, biến chất; tăng cường biện pháp và phối hợp lực lượng đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền trong bộ máy quản lý nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước); - Thành lập Toà án hành chính và thực hiện xã hội hoá đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ công. Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) họp tháng 6 năm 1997 ra Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về cải cách hành chính được nhấn mạnh trong Nghị quyết quan trọng này là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức. Từ đó, Chính phủ ban hành các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong việc xây dựng chiến lược về cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, Nghị quyết Trung ương 3 đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, coi đó là yếu tố quyết định đến chất lượng bộ máy nhà nước. Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, được bố trí, điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII), đã biểu thị một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp tục tiến hành cải cách hành chính, đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm thực tiễn, Đảng đã đi đến khẳng định, trong điều kiện một đảng cầm quyền, sự đổi mới chưa đồng bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc cải cách hành chính trong thời gian qua. Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể cải cách hành chính một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp. Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương. Đại hội IX (năm 2001) bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng…
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) ngày 23/01/1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một buớc nền hành chính.
“Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả, bài trừ quan liêu, tham nhũng, luôn luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Để làm tốt việc đó, cần nắm vững những quan điểm cơ bản sau đây:
1. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Quán triệt bản chất giai cấp công nhân chính là kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa. Trong mọi lĩnh vực từ chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng và thực hiện pháp luật đến tổ chức cán bộ đều phải thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta.
Bản chất giai cấp công nhân gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân của Nhà nước ta. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhà nước do dân lập nên, dân bầu ra, dân giám sát và bãi miễn. Nhà nước phải thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của dân, bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực nhà nước về nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện và nâng cao trong quá trình pháp triển kinh tế – xã hội và mở mang dân trí. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và chuyên chính với những hành vi xâm phạm lợi ích của nhân dân, vi phạm an ninh Tổ quốc.
2. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Quyền lực nhà nước bao gồm ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Không ngừng hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, xác định rõ chức năng, quyền hạn, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi ba quyền đó.
3. Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Kết hợp đúng đắn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu lực của bộ máy Nhà nước ta. Nguyên tắc tập trung dân chủ cần được quán triệt trong việc xây dựng pháp luật, trong quy chế về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, được quy định cụ thể sát hợp với tính chất, chức năng của từng tổ chức, từng lĩnh vực hoạt động và phải chấp hành nghiêm túc.
Tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính chủ động, năng động của địa phương. Khắc phục cả hai khuynh hướng lệnh lạc: phân tán cục bộ và tập trung quan liêu.
Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền. Tập trung vào trung ương quyền quyết định những vấn đề ở tầm vĩ mô. Đồng thời phân cấp quản lý để phát huy tính chủ động và tinh thần trách nhiệm của chính quyền địa phương.
4. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Đó là cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội. Đồng thời, coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí. Cán bộ, viên chức nhà nước phải nêu gương đạo đức. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, trước hết trong đảng và cơ quan nhà nước, làm cho mọi người hiểu và làm theo pháp luật.
5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong tình hình hiện nay, cần khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, đấu tranh chống lại các luận điệu thù địch, khắc phục những nhận thức, quan điểm mơ hồ, lệnh lạc. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải gắn liền và dựa trên cơ sở đổi mới và chỉnh đốn đảng, bao gồm đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo định ra đường lối, chính sách, những chủ trương cụ thể quan trọng, có quan hệ nhiều mặt, có ảnh hưởng chính trị rộng. Nhà nước thể chế hoát đường lối, chủ trương của Đảng và tổ chức, quản lý, điều hành việc thực hiện. Đảng kiểm tra việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn kịp thời những lệch lạc; coi trọng việc bố trí cán bộ, chỉ đạo sự phối hợp giữa các tổ chức, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo nhà nước, nhưng đáng và mọi đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng lãnh đạo thông qua đảng bộ, đảng uỷ, đảng đoàn, ban cán sự, qua đảng viên hoạt động ở cơ quan nhà nước. Tổ chức đảng và đảng viên hoạt động ở các cơ quan đó phải nghiêm chỉnh chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật Nhà nước…
II. CẢI CÁCH MỘT BƯỚC NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Đây là yêu cầu rất bức xúc và là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới. Mục tiêu của cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Trong những năm trước mắt, tập trung làm tốt một số việc sau đây.
1. Cải cách thể chế của nền hành chính.
Trong năm 1995, phải cải cách một bước cơ bản các thủ tục hành chính cả về thể chế và tổ chức thực hiện.
Loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết, giảm phiền hà, ngăn chặn tệ nạn cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật. Lập lại trật tự trong việc ban hành thủ tục hành chính và quy định lệ phí. Chính phủ nắm quyền ban hành thủ tục hành chính; đồng thời quy định phạm vi giao quyền cho cấp tỉnh, thành phố được ban hành một số loại thủ tục mang tính đặc thù của địa phương.
Tập trung cải cách thủ tục trong các lĩnh vực tác động trực tiếp tới đời sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân. Quy định chế độ công vụ và quy chế phối hợp của các cơ quan có trách nhiệm giải quyết công việc của dân một cách công khai, minh bạch, chống cửa quyền.
Đẩy mạnh việc giải quyết các khiếu kiện của dân. Soát xét, bổ sung và thể chế hoá các chính sách, trước hết đối với những lĩnh vực mà dân khiếu kiện nhiều như những tranh chấp về nhà, đất… Xúc tiến việc thiết lập hệ thống toà án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính. Sửa đổi, bổ sung thể chế và đề cao trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong việc xử lý các khiếu nại của dân không cần đưa xét xử ở toà án. Coi trọng vai trò hoà giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở.
Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý cán bộ trong việc giải quyết các đơn, thư tố cáo về những sai phạm của cán bộ, công chức. Các vụ tố cáo phải được cơ quan có thẩm quyền kết luận rõ. Người bị tố cáo được quyền nhận thông tin đầy đủ và bào chữa, giải trình. Người tố cáo không đúng sự thật với dụng ý xấu phải bị xử lý theo pháp luật.
Có quy chế giao trách nhiệm nghiên cứu, tập hợp và trả lời thư của nhân dân góp ý về công việc chung của đất nước. Tổ chức thu thập ý kiến của các đối tượng chính phải thi hành các văn bản pháp quy trước khi ban hành.
Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh thể chế kinh tế mới, tập trung vào ba lĩnh vực: xây dựng, bổ sung hệ thống luật và văn bản pháp quy tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn chỉnh thể chế quản lý tài chính công (ngân sách, kho bạc, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước…) và các tài sản công khác. Phân loại các doanh nghiệp nhà nước và xây dựng thể chế quản lý phù hợp với tính chất từng loại doanh nghiệp.
Đổi mới quy trình lập pháp và lập quy. Cải tiến sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ để đảm bảo tính kịp thời và nâng cao chất lượng xây dựng luật. Tăng cường công tác lập quy của Chính phủ nhằm cụ thể hoá và triển khai thực hiện luật được nhanh chóng, có hiệu quả. Kịp thời có quy định pháp lý cho những vấn đề chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật. Bảo đảm việc ban hành văn bản pháp quy theo đúng thẩm quyền. Văn bản chính chỉ ban hành khi đã cơ bản chuẩn bị được văn bản hướng dẫn. Nghị định của Chính phủ phải đủ cụ thể để chấp hành; thông tư của bộ, liên bộ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện văn bản pháp quy của Chính phủ.
Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội, kỷ luật trong bộ máy nhà nước. Hoàn thiện quy chế ban hành, công bố, phổ biến luật và các văn bản pháp quy khác; quy định trách nhiệm của các công sở trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho nhân dân về các văn bản pháp quy. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệc pháp luật với các đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng trong việc phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và những hành vi vi phạm pháp luật. Kiện toàn tổ chức, làm trong sạch đội ngũ và bổ sung phương tiện hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Xử phạt nghiêm cán bộ, công chức cơ quan bảo vệ pháp luật lợi dụng chức quyền vi phạm pháp luật. Điều chỉnh hợp lý sự phân công và phối hợp giữa cơ quan hành chính với viện kiểm sát và toà án trong các khâu điều tra, khởi tố, truy tố, thi hành án. Nâng cao năng lực và chất lượng của các cơ quan xét xử, bảo đảm giải quyết các vụ án kịp thời, nghiêm minh.
2. Chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính theo phương hướng:
Một là, Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp tập trung chủ yếu vào quản lý kinh tế vĩ mô, chăm lo các vấn đề văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, duy trì hiệu lực của pháp luật, củng cố quốc phòng, an ninh, thi hành chính sách đối ngoại; không can thiệp trực tiếp việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh; tiến tới xoá bỏ chế độ chủ quản đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế kinh doanh.
Hai là, vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ sát hợp với chức năng chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính và với đặc điểm của từng ngành, từng lĩnh vực. Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp hành chính, trước hết là về lập quy và ngân sách.
Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm tập thể và cá nhân; bảo đảm sự lãnh đạo tập thể về những vấn đề quan trọng được quy định rõ trong điều lệ tổ chức và hoạt động của từng cơ quan, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân của thủ trưởng cơ quan trong công tác điều hành.
Theo các phương hướng và nguyên tắc chung đó, xúc tiến điều chỉnh từng bước cơ cấu tổ chức, tinh giản bộ máy hành chính các ngành, các cấp.
Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ theo hướng giảm dần số lượng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Tăng cường trách nhiệm của bộ trưởng trong việc quyết định các vấn đề thuộc chức năng và thẩm quyền của bộ. Thủ tướng tập trung vào việc chỉ đạo, phối hợp công việc giữa các bộ, giải quyết các vấn đề vượt khỏi thẩm quyền của bộ trưởng và trực tiếp nắm các vấn đề lớn như lập quy, kế hoạch, ngân sách, tổ chức và nhân sự hành chính cấp cao.
Bộ có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với toàn ngành hoặc lĩnh vực được phân công trong phạm vi cả nước. Xác định rành mạch, cụ thể trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của bộ và của chính quyền địa phương phù hợp với tính chất, đặc điểm từng ngành, từng lĩnh vực. Trên cơ sở đó, quy định tổ chức bộ máy ở trung ương và các cấp với quy chế hoạt động thích hợp với từng ngành, từng lĩnh vực.
Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp. Đề cao trách nhiệm và kỷ luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân trong việc chấp hành pháp luật và các quyết định của Quốc hội, Chính phủ và của cơ quan hành chính cấp trên. Tăng quyền chủ động của hội đồng nhân dân trong việc quyết định những vấn đề mang tính địa phương, quyết định ngân sách trong phạm vi được phân cấp. Quy định cụ thể, nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân từng cấp. Xây dựng quy chế kết hợp quyền bầu cử của hội đồng nhân dân cùng cấp với quyền của Thủ tướng và chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên phê chuẩn việc bầu cử các thành viên của uỷ ban nhân dân cấp dưới, việc miễn nhiệm, điều động, cách chức chủ tịch, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp dưới.
Tổ chức bộ máy hành chính thành phố, thị xã phù hợp với đặc điểm quản lý đô thị mang tính tập trung, thống nhất cao. Xác định hợp lý phạm vi ngoại thành, ngoại thị trên cơ sở quy hoạch đô thị. Xác định vị trí và chức năng của chính quyền cấp huyện với thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng. Kiện toàn chính quyền cấp xã, giải quyết vấn đề ngân sách xã và từng bước chuyên nghiệp hoá một số vị trí công tác ở xã. Thực hiện chế độ trưởng thôn, trưởng ấp, trưởng bản do dân cử.
Các cơ quan chuyên môn chịu sự chỉ đạo của cơ quan ngành dọc cấp trên và của uỷ ban nhân dân địa phương theo sự phân định phạm vi trách nhiệm, quyền hạn giữa bộ và chính quyền địa phương. Một số ngành do yêu cầu quản lý tập trung thống nhất cao có thể tổ chức cơ quan cấp dưới theo khu vực, không nhất thiết gắn với địa giới của cấp hành chính.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện chế độ công vụ và quy chế công chức, chú trọng cả yêu cầu về phẩm chất, đạo đức và trình độ, năng lực. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngạch, bậc công chức và cải tiến chế độ tiền lương, gắn trách nhiệm với quyền hạn, nhiệm vụ với chính sách đãi ngộ. Chú trọng phát hiện và bồi dưỡng các tài năng trong đảng, ngoài đảng. Ban hành quy chế tuyển dụng và đề bạt qua thi tuyển hoặc kiểm tra sát hạch. Mọi công dân có đủ điều kiện có cơ hội ngang nhau để được tuyển làm công chức.
Huấn luyện lại và tuyển chọn công chức theo tiêu chuẩn chức danh. Đối với những người không đủ tiêu chuẩn, cần có chính sách thoả đáng, tạo điều kiện cho họ tìm việc làm, ổn định đời sống. Kiên quyết sa thải những công chức thoái hoá, biến chất. Thực hiện chế độ nghỉ hưu đúng tuổi đối với công chức.
Đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ công chức. Có kế hoạch bồi dưỡng những công chức đang làm việc và đào tạo những người mới theo kịp trình độ hiện đại, bao gồm cả tiêu chuẩn về ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ tin học. Phấn đấu sau một số năm, các công chức đều đạt được tiêu chuẩn quy định cho từng ngạch, từng chức danh. Coi trọng hình thức đào tạo ngắn ngày. Nâng cao trình độ của cán bộ giảng dạy. Mở rộng và quản lý tốt việc hợp tác với nước ngoài trong công tác đào tạo. Sắp xếp hợp lý và kiện toàn hệ thống các cơ sở đào tạo cán bộ quản lý và công chức.
Từng bước hiện đại hoá công sở, sớm hình thành mạng lưới tin học trong hệ thống hành chính.
Đấu tranh kiên quyết và bền bỉ chống tệ tham nhũng, lãng phí của công, gắn với cải cách nền hành chính và chỉnh đốn đảng trong hệ thống hành chính. Xác định rõ những việc liên quan đến kinh doanh, đến việc làm cho người nước ngoài mà công chức không được phép làm; quy định chặt chẽ việc nhận quà biếu, tiếp khách và chế độ cán bộ, công chức, đảng viên, trước hết là những người giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, phải báo cáo và chịu sự kiểm tra về nguồn tiền mua đất, làm nhà…
Huy động sức mạnh tổng hợp của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí của công. Quy định hình thức kỷ luật tương ứng với mức độ trách nhiệm của tập thể và cá nhân có cương vị chủ chốt ở nơi xảy ra tham nhũng và lãng phí. Có chế độ khen thưởng và bảo vệ người có công phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hệ thống h¢nh ch■nh Nh¢ nước Việt Nam.doc