Hành vi duy lý của con người và sự duy lý mang tính kinh tế

Những định nghĩa cơ bản về hành động duy lý trên hàm ý không

xác định mục đích hay ý nghĩa của hành vi duy lý đó. Chúng có thể là

kinh tế/phi kinh tế, công cụ/phi công cụ, vị kỷ/vị tha, cá nhân/xã hội và

v.v Những quan niệm về hành động duy lý không mô tả thuyết mục

đích cơ bản, điển hình như các đặc điểm về mục đích hay mục tiêu theo

đuổi. Dù chúng là gì đi nữa thì điều kiện tiên quyết cơ bản cho hành động

duy lý là phải tồn tại sự kết hợp vốn có giữa mục tiêu và ý nghĩa, nếu sự

kết hợp này được nhận thức bởi người hành động (chính mình)/những

người khác (bạn chí cốt). Điều này trái ngược với khuynh hướng gây hiếu

kỳ về lý thuyết hành vi duy lý trong việc xác định rõ những mục đích này

là kinh tế tiên nghiệm, công cụ, vị kỷ và cá nhân, chẳng hạn như độ thỏa

dụng, lợi nhuận, tối ưu hóa sự giàu có, tìm kiếm vị lợi, tối thiểu hóa chi

phí, tính toán chi phí - lợi ích, và những thứ tương tự thế, do đó quy tất cả

những điều này thành 1 lớp riêng. Những giả thuyết cơ bản về phương

thức này có nghĩa là chỉ các mục đích, các hành động tương ứng và

những chọn lựa như thế là duy lý và phi duy lý hay bất hợp lý khác.

pdf57 trang | Chia sẻ: Kiên Trung | Ngày: 11/12/2023 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Hành vi duy lý của con người và sự duy lý mang tính kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan đến suy nghĩ của các giá trị về những lợi ích (Elster, 1998) với thu nhập tâm linh trở thành một ví dụ của lý luận này, đối với tâm lý, lý tưởng và các hiện tượng văn hoá Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 39 không chỉ đơn giản là những gì mà các nhà kinh tế cho là thu nhập, lợi nhuận, vốn, và những thứ tương tự vậy. Theo lẽ này, thu nhập tâm linh xuất hiện như là một nghịch lý phản ánh những sai lầm trên, hoặc ít nhất là ẩn dụ và so sánh dễ dàng, những sửa đổi này này áp dụng với thiên về kinh tế giả (pseudo-economic) tương tự như trên, bao gồm lợi nhuận chính trị, thu nhập, vốn đầu tư, trao đổi, hoặc thị trường, v.v Ngoài ra, theo báo cáo nghiên cứu và báo cáo tâm lý học khác, các biểu thức như thu nhập của tâm linh là "công bằng, bình đẳng, tìm kiếm vị thế và xuất phát từ lợi ích cá nhân [thỏa dụng cá nhân] rất quan trọng trong hành vi" (Rabin 1998:16) Một mặt, giải pháp cho các vấn đề về động cơ trong hành vi xã hội để tối đa lợi nhuận, cứng nhắc, duy lý “thin” bao gồm cả chính trị đã nghi ngờ ít hay nhiều cho câu trả lời phức tạp về một sự thay thế duy lý “thick” (ảnh hưởng về chính sách công cộng, quyền lực, hoặc độ thỏa dụng đơn giản)" (Wintrobe 1997:429. Mặt khác, việc chọn lựa “thick” thường nhảy vào các vấn đề rõ ràng của riêng nó, đặc biệt là những cạm bẫy của phép lặp thừa, như được khuyên bởi một số người ủng hộ của phương pháp kinh tế cho xã hội, bao gồm cả chính trị (Buchanan và Tullock 1962; Downs 1957; cf, cũng Miller. 1997). Các nhà phê bình phản đối đưa tất cả mọi thứ trong một hàm bao gồm toàn bộ tiện bộ tiện ích đơn lẻ (Etzioni 1999) làm cho độ thỏa dụng "chỉ là hệ thống toán học gian trá của bất kỳ nội dung riêng biệt nào" (Margolis 1982:16). Sự chọn lựa duy lý bằng cách thiết kế một lý thuyết vô nghĩa bởi bất kỳ thực thể nào (Popper 1967), trong đó các quan niệm về hành vi duy lý (= thống nhất) đã "không có nội dung thật" (Sugden 1991:751). Kết quả là một phép lặp thừa sai lệch mà "nói rất ít về hành vi của con Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 40 người [lưu] mà nó luôn luôn hợp lý ở khắp mọi nơi" (Friedman 1996:23). Điều này áp dụng đối với những quan niệm lựa chọn duy lý “thin” trong kinh tế học tranh luận rằng khi “áp dụng cho các kết quả cuối cùng của hành động, các điều khoản hợp lý và không hợp lý thì không phù hợp và vô nghĩa”(Mises 1966:19). Vì vậy, hiện nó áp dụng cho các lý thuyết chọn lựa duy lý xã hội học thick (Hechter và Kanazawa 1997) duy trì hành vi phi duy lý hoặc "chỉ vì các quan sát viên đã không phát hiện ra các quan điểm của các đối tác từ những hành động gì là duy lý" (Coleman 1990 : 19). Để tối đa hóa độ thỏa dụng, điều này bao gồm tất cả cái gì được xem là chuẩn mực của hành vi duy lý, ngoài ra hầu như các Giáo hội Anh ngăn chặn và xử phạt bất kỳ "sự sai lệch thành sự bất kính" (Keynes 1972:276 - 7), một tiền đề vượt ra ngoài bất kỳ sự ngờ vực nào. Do vậy, ít nhất là trong quan niệm kinh tế-công cụ phổ biến của hành vi duy lý và tất cả các mục đích hành động được xem là bao gồm toàn bộ các tính toán chính xác và tối ưu hóa độ thỏa dụng (Stigler và Becker 1977). Với quan niệm này đã chuyển thành "tái cấu trúc toán học: chọn một hành vi và kể một câu chuyện về những gì nó có thể là tối đa hóa" (Ackerman 1997:662). Do đó, trong khi cố gắng để làm cho nó vượt ra khỏi những phê bình, tuy nhiên các cuộc cách mạng, các biến và mở rộng khác nhau quy mô lựa chọn duy lý trong lý thuyết cũng có thể được sử dụng như là các yếu tố sự phê phán. Những nỗ lực đó theo một mức độ và thay đổi hành động vượt quá việc nhìn nhận một quan niệm lựa chọn duy lý hẹp và mỏng về xã hội thành một thứ lớn hơn và dày hơn bao hàm sự thừa nhận những bất cập của các quan niệm. Về phương pháp luận, vì những nỗ lực như vậy liên quan đến phát triển lý thuyết ad-hoc hay post-hoc (Conlisk Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 41 1996), chúng có nguy cơ ad-hockery hoặc phép lặp thừa, cũng như những giả thuyết ad-hoc khác nhau được tiến triển khi các tiền đề ban đầu về sự tối ưu hóa thất bại (Baxter 1993). Không ngạc nhiên khi nhiều tác giả đã đặt câu hỏi nếu những người khác đã tham gia bào chữa rằng - vô ích ngay cả việc phê bình lý thuyết lựa chọn duy lý, chuyển đổi nó thành một Popper gì đó với một liều lượng của "niềm tự hào và niềm vui" theo thuật ngữ 'nguyên tắc gần như trống rỗng' một hoặc phép lặp thừa sai lệch(Friedman 1996). Điều này đúng trên tất cả các tiên đề của tối ưu hóa toàn bộ độ thỏa dụng, trong đó hàm thỏa dụng bao gồm hầu như tất cả các động cơ và mục đích của con người, cho một tiên đề hiển nhiên hay một phép lặp thừa, giống như các mệnh đề toán học (ví dụ, 4 x 6 = 6 x 4) , không thể mất hiệu lực thực nghiệm chỉ bằng định nghĩa. Vì vậy, một số nhà kinh tế và thuyết lựa chọn duy lý xem xét tính chất lặp thừa này không có khả năng kiểm chứng là một lợi thế lớn của lý thuyết, tranh luận rằng "không cần kiểm nghiệm trực tiếp của các định đề cơ bản trong [...] vật lý hoặc trong kinh tế học - pháp luật tối đa hóa độ thỏa dụng và lợi nhuận "(Machlup 1963:167). Nói chung, như gợi ý ở trên, một số bài tập đầu (ví dụ như Mises, Hayek) trong một quan niệm lựa chọn duy lý mỏng hoặc bất khả tri trong kinh tế dựa trên giả định rằng hành vi xã hội là duy lý bất biến, do đó tương đương với con người hành động duy lý. Các giả định tương tự cũng được tìm thấy trong các phương pháp tiếp cận kinh tế toàn diện với hành vi con người vì nó xử lý các hành vi phi duy lý và biến chuyển, bao gồm cả sở thích, cảm xúc và thậm chí là nghiện ngập nhưng tập hợp con Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 42 hoặc đột biến trong những sự duy lý, ví dụ như các phép tính chi phí-lợi ích (Becker 1991). Thực tế, một trường hợp khác là trong tình trạng tiếp cận kinh tế học của hành vi vị tha nhưng cũng là tạo thành một dạng nghịch đảo của sự vị kỷ duy lý, và do đó những người theo chủ nghĩa vị tha thuần túy được phân loại là người thích tự do (Elster năm 1989; Rose-Ackerman 1996) trong việc biến chuyển các biến của “kẻ ngu si duy lý”(Sen 1977). Trong trường hợp khác, cách tiếp cận kinh tế đối xử thậm chí với việc nghiện ngập suốt đời và có hại cũng là sự lựa chọn duy lý phản ánh khả năng tối ưu hóa theo trào lưu của việc nghiện, cũng như các nhà phê bình (Ackerman 1997:662) phản đối, thay đổi thị hiếu và các quá trình phi duy lý khác và hành vi. Phương trình giả định về con người và hành động duy lý hay mang tính công cụ này cũng hàm ý trong mô tả “thin” về lý thuyết lựa chọn duy lý xã hội học của đời sống xã hội cũng như tối ưu hóa toàn bộ độ thỏa dụng, mặc dù mô tả này thường là bất khả tri về nội dung của hàm thỏa dụng. Như đã nói trước đó, lý thuyết chọn lựa duy lý có xu hướng phát triển thành các lý thuyết của tất cả đời sống xã hội tìm kiếm sự giải thích hầu như mọi hiện tượng trong xã hội, bao gồm những loại hình chọn lựa cộng đồng. Do đó, lý thuyết này yêu cầu đại diện cho một "khuôn khổ lý thuyết phổ quát về sự lựa chọn và hành vi duy lý " (Hodgson 1998:168). Về nhận thức luận, đặc biệt là về các đặc điểm kỹ thuật, quy mô và sự xác định, lý thuyết chọn lựa duy lý thick hoặc linh hoạt trong xã hội học có thể được đặt vấn đề nhiều hơn so với các lý thuyết trái ngược nó là cứng nhắc hay thin trong kinh tế. Loại thứ hai ít nhất phù hợp với một miền xác định. Tuy nhiên, chúng thường giả định không thực tế so với Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 43 thế giới thực (đối với một loạt các tình huống, cf., Frey và Oberholzer- Gee 1997). Điều giả định này xa thực tế có thể biểu lộ như "điểm tấn công" vào lý thuyết lựa chọn duy lý (mỏng), cũng là đối tượng nhiều nhà phê bình về nó (Archer và Tritter 2000). Mặt khác, hình thức một lý thuyết giả định chữa được tất cả (Collins 1986) là không phù hợp nội tại và thậm chí trái ngược – chẳng hạn như mọi thứ mà con người làm là hợp lý - với phạm vi vô hạn/ không xác định, do đó trở thành vòng tròn tầm thường hoặc đơn giản. Và vì tính chất lặp thừa, “thuật giả kim” độ thỏa dụng làm nó hòa trộn tất cả mọi thứ thành thỏa dụng, lý thuyết lựa chọn duy lý thick có nguy cơ trở thành vô dụng với các nghiên cứu thực nghiệm cũng như để xây dựng các lý thuyết. Nhìn lại, sự nguy hiểm này lan ra, ánh sáng của lý thuyết chọn lựa duy lý, hay cộng đồng "(Buchanan 1991) cảnh báo chống lại sự nguy hiểm của phép lặp thừa được hàm ý trong lý thuyết chọn lựa mở rộng hoặc dày đặc, đặc biệt là hàm thỏa dụng toàn diện gộp lại với tất cả kết quả của con người, cũng như giải pháp được đề nghị bằng cách hạn chế các mục tiêu giả kinh tế (Miller 1997). Nó cũng làm nổi bật những lập luận cho việc không thể hoặc vô ích của việc chỉ trích giả định tối ưu hóa độ thỏa dụng biên hoặc "pháp luật" (Machlup 1963), và như vậy lý thuyết lựa chọn duy lý cũng dựa trên giả thuyết này. Bất cứ tỷ lệ nào, lý thuyết lựa chọn duy lý cũng tìm ra được chính nó giữa Scylla của quan niệm thin phi hiện thực thực nghiệm và các Charybdis về phép lặp thừa sai lầm của các lý thuyết dày giả toàn bộ hành vi duy lý. Các vấn đề trước đe dọa để làm cho lý thuyết không liên quan đến sự hiểu biết và giải thích tổ chức xã hội và hành vi đời sống thực, thứ hai để báo hiệu kết quả của nó khi chúng ta biết, ví dụ, một mô Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 44 hình kinh tế của xã hội, bằng cách chuyển đổi nó thành một lý thuyết vòng tròn phổ quát. Hơn nữa, một số mâu thuẫn nội tại trong lý thuyết lựa chọn duy lý cũng có thể giúp trả lời câu hỏi là liệu mô hình thick hoặc mềm có đầy đủ nhiều hơn hay ít hơn so với các đối tác của họ đầy đủ mỏng hoặc cứng. Tất cả những mâu thuẫn liên quan đến một phương trình ban đầu của hành vi hợp lý với tối đa hóa độ thỏa dụng, và sau đó ngầm chối bỏ phương trình ad-hoc. Ví dụ, luật cầu được coi là bao hàm sự tối đa hóa độ thỏa dụng của người tiêu dùng và đó là mẫu điển hình về hành vi duy lý. Do đó, đảo ngược quy luật cầu cũng như nghịch lý của Veblen về vị thế - xu hướng được coi là trường hợp của hành vi phi duy lý, tức là không tối đa hóa độ thỏa dụng - trong các mô hình cứng nhắc hay linh hoạt. Tuy nhiên, trong các mô hình dày hoặc linh hoạt này, những sự đảo chiều liên quan đến một số loại tối đa hóa độ thỏa dụng hay thoả mãn và do đó hành vi hợp lý, với tất cả các mục đích hành động, bao gồm cả địa vị xã hội, được bao gồm trong hàm thỏa dụng bao quát. Như vậy, tối đa hóa độ thỏa dụng ví như tìm kiếm vị thế hay quyền lực liên quan đến việc đảo chiều của luật kinh tế được coi là hành vi duy lý trong các mô hình dày, và là một sự phi duy lý trong các mô hình mỏng! Trong trường hợp luật cầu, tối đa hóa độ thỏa dụng phản ánh hành vi duy lý, mà trong nghịch lý của Veblen đó là hành vi phi duy lý! Một mâu thuẫn tiếp theo cũng đòi hỏi phải tối ưu hóa tiện ích tương ứng với hành vi hợp lý, nhưng sau đó đã phủ nhận phương trình này. Thứ nhất, độ thỏa dụng tối đa hóa hành vi cụ thể liên quan đến việc tối đa hóa thu nhập tiền tệ hoặc lợi nhuận như là một mẫu giả định của kinh tế duy lý. Do đó, trong các mô hình “thin” đảo ngược tối đa hóa lợi Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 45 nhuận của các hình thức tìm kiếm mục đích phi kinh tế, ví dụ: thu nhập tâm linh, có thể làm giảm thu nhập tiền tệ và do đó không hợp lý về mặt kinh tế. Tuy nhiên, kể từ khi mô hình “thick” kết hợp tất cả những động cơ này trong các hàm thỏa dụng, bao gồm cả thu nhập tâm linh được xem là một phép ẩn dụ cho bất cứ điều gì không được diễn đạt theo tiền tệ, tối ưu hóa hoặc thoả mãn đối với các mục tiêu phi tiền tệ cũng sẽ được cho trước duy lý các phương trình về hành vi duy lý với hành vi tối đa hóa độ thỏa dụng "tổng quát ". Một lần nữa, trong một trường hợp, đó là tìm kiếm lợi nhuận, tối đa hóa độ thỏa dụng được coi là duy lý, và trong những trường hợp khác, theo đuổi mục tiêu mở rộng tiền tệ là phi duy lý! Còn một mâu thuẫn nữa, thừa nhận và phủ định phương trình giữa việc tối ưu hóa độ thỏa dụng và hành vi duy lý, được ngụ ý trong việc điều trị sự lựa chọn hợp lý của ích kỷ và vị tha. Một mặt, trong lý thuyết lựa chọn hợp lý tối đa hóa lợi ích cá nhân hoặc mục đích vị kỷ thường đặc trưng bởi hành vi duy lý bằng cách kế thừa tối ưu hóa độ thỏa dụng, vì thế hành vi này được gọi là chủ nghĩa cá nhân duy lý (Hechter và Kanazawa 1997). Mặt khác, theo đuổi mục tiêu không vụ lợi hoặc vị tha thường được coi là phản ánh hành vi không hợp lý, do đó đại diện cho một số loại của vị tha phi duy lý. Tuy nhiên, một số mô hình lựa chọn duy lý thick mặc nhiên thừa nhận rằng lòng vị tha cũng như vị kỷ có thể liên quan đến tối ưu hóa độ thỏa dụng, các mô hình như thế trong hàm thỏa dụng bao gồm tất cả kết hợp nhau bao gồm cả động cơ thúc đẩy vị kỷ và vị tha. Tuy nhiên, lý thuyết lựa chọn hợp lý thường kết hợp sự vị kỷ với hành vi duy lý, và lòng vị tha với hành vi phi duy lý. Trên đây ngụ ý một đề xuất nghịch lý trong lý thuyết lựa chọn duy lý: hành vi vị tha có thể tối ưu hóa độ thỏa dụng trong các mô hình thick Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 46 nhưng không hợp lý trong các mô hình thin. Và đây là một mâu thuẫn tẻ nhạt: trong một trường hợp giống như ích kỷ, lý thuyết lựa chọn duy lý tương đương với hành vi hợp lý tối đa hóa lợi ích, trong một trường hợp khác, đó là lòng vị tha. Kết luận Trong phần trước tôi đã khám phá và thảo luận quan niệm riêng biệt về hành vi duy lý trong những gì được giả định là lý thuyết chọn lựa duy lý cả về kinh tế học và xã hội học và tiến tới sự chính xác về dạng định nghĩa và quan niệm mở rộng về hành vi duy lý cũng như về công cụ, kinh tế hay cá nhân và phi kinh tế, ngoài kinh tế hay xã hội. Thảo luận này chỉ ra sự tồn tại và sự gia tăng dị thường về quan niệm và phương pháp luận khác nhau, sự nghịch lý hoặc bệnh lý (Smelser 1992) mà sự hiểu biết và không phân biệt sự mở rộng các quan niệm về công cụ của hành vi duy lý tạo ra trong xã hội học và liên quan đến các ngành khoa học xã hội khác, cũng như được thiết lập trong kinh tế học tân cổ điển, cũng như sự đảm bảo về lý thuyết chọn lựa duy lý hiện thời. Ví dụ, việc mở rộng vấn đề đặt ra của lý thuyết kinh tế tân cổ điển, bao gồm người tiêu thụ, tính duy lý cũng như tối đa hóa độ thỏa dụng thành những lĩnh vực khác chỉ bộc lộ những gì sai quá mức lý thuyết naỳ trong vị trí đầu tiên (Ackerman 1997:652). Thảo luận này cũng đưa ra những phương cách sửa chữa theo phép phân tích những nghiên cứu về bản chất các quy trình của lý thuyết chọn lựa duy lý như thế làm cho sự xuất hiện gần đây giống như nguyên bản của kinh tế học tân cổ điển, “nguyên thủy” chịu “những sắp đặt trước”, thậm chí “mù lòa và ngu mụi” (Akerlof 2002), “sự kỳ dị có thể” Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 47 (Margolis 1982), “khù khờ một chút” (Etzioni 1999), “một mặt của đồng tiền” tốt nhất (Arrow 1990) hoặc “khôi hài” (Friedland và Robertson 1990). Tóm lại, đa số những nghiên cứu bản chất từ các quy trình này sinh ra từ việc không có khả năng hiểu và giải thích sự phức tạp của đời sống con người trong xã hội (Sen 1990), bao gồm bản chất phức tạp và các việc của chính hành vi duy lý. Tất cả các phép thử này nghi ngờ tính khả thi có thể giải thích được về lý thuyết chọn lựa duy lý được thiết kế làm mô hình mẫu cho khoa học xã hội, bao gồm xã hội học và khoa học chính trị, song song với kinh tế học. Phải thừa nhận là, trong phiên bản lý thuyết chọn lựa duy lý hiện thời không phải là lý thuyết tổng quát vì nó sử dụng quá nhiều quan niệm thô và hẹp về tính duy lý (Boudon 1998:821), được cố gắng để trình bày trong phần trước. Quan niệm hẹp này không chú ý đến tình trạng logic và bằng chứng thực nghiệm mà hành vi con người có thể là duy lý không chỉ về tiêu chuẩn kinh tế mà còn có tiêu chuẩn ngoài kinh tế. Do đó, sự cẩu thả là phạm vi ảnh hưởng và làm lộ ra tính duy lý phi kinh tế theo hình thức kinh tế học. Hành vi duy lý đó biểu lộ cả tính duy lý về kinh tế và duy lý phi kinh tế có thể làm lập luận chủ chốt và suy luận của bài này. Do đó, những gì nói trên cho thấy rằng hành vi con người không chỉ duy lý về mặt kinh tế mà còn phi duy lý về mặt kinh tế và chưa duy lý về mặt phi kinh tế. Cuối cùng thì vấn đề đặt ra tăng lên theo những gì làm nên sự khác biệt giữa quan niệm về hành vi duy lý gia tăng ở đây và lý thuyết hành động duy lý về mặt xã hội học, vì dường như điểm chung của chúng là cả hai đều đại diện cho những sự chọn lựa mở rộng sang quan niệm về hành vi duy lý mang tính công cụ-kinh tế. Trước tiên, quan niệm về hành vi Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 48 duy lý trong bài này dự tính trước những mục đích rõ ràng về hành động xã hội, trong khi lý thuyết chọn lựa duy lý về xã hội học “thin” có khuynh hướng không thể biết(Golthorpe 1998) và sự im lặng (Hechter và Kanazawa 1997) về những mục đích này và do đó liên quan đến những sai lầm bỏ sót. Thứ hai, quan niệm tổng quan trong bài này không xem những mục tiêu kinh tế thiết thực về cơ bản hơn là phi kinh tế; trái với vấn đề trước thường có nghĩa công bằng hay mục tiêu trung lập đối với mục tiêu thống nhất. Trái lại, cả hai lý thuyết chọn lựa duy lý “thin” và “thick” về mặt xã hội học xem các mục tiêu kinh tế là thứ tự đầu tiên liên quan với mục tiêu phi kinh tế là thứ tự thứ hai và do đó chứng tỏ hành động xã hội là không phải tất cả mục tiêu và động cơ của con người đều được gộp vào theo hàm thỏa dụng bao gồm tất cả như trong lý thuyết chọn lựa duy lý “thin” về mặt xã hội học, do đó bị gây phiền phức bởi công cụ sai lệch với đối tác kinh tế tương ứng. Tuy nhiên, Việc tạo ra những sự khác nhau giữa hai quan niệm về chọn lựa duy lý này có thể là nội dung của bài báo khác. Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 49 References Abell, P. (2000). Putting Social Theory Right? Sociological Theory 18, 518-523. Ackerman, F. (1997). Consumed in Theory: Alternative Perspectives on the Economics of Consumption. Journal of Economic Issues, xxxi, 651-664. Akerlof, G. (2002). Behavioral Macroeconomics and Macroeconomic Behavior. American Economic Review 92, 411-433. Alexander, J. (1990). Structure, Value, Action. American Sociological Review 55, 339-345. Archer, M. and J. Tritter (eds.). 2000. Rational Choice Theory. London: Routledge. Arrow, K. (1990). Economics and Sociology. In R. Swedberg (Ed.), Economics and Sociology (pp. 136-148). Princeton: Princeton University Press. Arrow, K. (1994). Methodological Individualism And Social Knowledge. American Economic Review 84, 1-9. Arrow, K. (1997). Invaluable Goods. Journal of Economic Literature 35, 757-765. Barber, B. (1993). Constructing the Social System. New Brunswick: Transaction Publishers. Baxter, J. (1993). Behavioral Foundations of Economics. London: St. Martin’s Press. Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 50 Becker, G. (1976). The Economic Approach to Human Behavior. Chicago: University of Chicago Press. Becker, G. (1991). A Treatise on the Family. Cambridge: Harvard University Press. Becker, G. and K. Murphy. (2000) Social Economics. Harvard: Harvard University Press. Bonham, J. (1992). The Limits of Rational Choice Explanation. In J. Coleman, and T. Fararo (Eds.), Rational Choice Theory (pp. 208-227). Newbury Park: SAGE Publications. Boudon, R. (1981). The Logic of Social Action. London: Routledge & Kegan Paul. Boudon, R. (1982). The Unintended Consequences of Social Action. New York: St. Martin’s Press. Boudon, R. (1989). Subjective Rationality and the Explanation of Social Behavior. Rationality and Society 1, 173-196. Boudon, R. (1996). The `Cognitivist Model”. Rationality & Society 8, 123-151. Boudon, R. (1998). Limitations of Rational Choice Theory. American Journal of Sociology 104, 817-826. Bourdieu, P. (1988). Outline of a Theory of Practice. Cambridge: Cambridge University Press. Bowles, S. (1998). Endogenous Preferences: The Cultural Consequences Of Markets And Other Economic Institutions. Journal of Economic Literature, 36, 75-111. Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 51 Bowles S., H. Gintis and M. Osborne. (2001). The Determinants of Earnings: A Behavioral Approach. Journal of Economic Literature 39, 1137-1176. Buchanan, J. (1991). Constitutional Economics. London: Basil Blackwell. Coleman, J. (1986). Individual Interests and Collective Action. Cambridge: Cambridge University Press. Coleman, J. (1988). Social capital in the creation of human capital. American Journal of Sociology, 94, S95-120. Coleman, J. (1990). Foundations Of Social Theory. Cambridge: Harvard University Press. Coleman, J. (1994). A rational choice perspective on economic sociology. In N. Smelser and R. Swedberg (Eds), The Handbook Of Economic Sociology (pp. 166-82). Princeton: Princeton University Press. Collins, R. (1986). Is 1980s Sociology In The Doldrums? American Journal of Sociology 91, 1336-1355. Conlisk, J. (1996). Why Bounded Rationality? Journal of Economic Literature 34, 669-700. Demsetz, H. (1997). The Primacy Of Economics: An Explanation Of The Comparative Success Of Economics In The Social Sciences. Economic Inquiry 35, 1-12. Elster, J. (1979). Ulysses and the sirens. Cambridge: Cambridge University Press. Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 52 Elster, J. (1989). The Cement of Society. Cambridge: Cambridge University Press Elster, J. (1998). Emotions and economic theory. Journal of Economic Literature, 36, 47-74. Emirbayer, M. and A. Mische. (1998). What is Agency? American Journal of Sociology 103, 962-1023. Etzioni, A. (1999). Essays in Socio-Economics. New York: Springer. Fararo, T. (2001). Social Action Systems. Westport: Praeger. Frank, R. (1996). The Political Economy Of Preference Falsification. Journal of Economic Literature, 34, 115-123. Frey, B. and F. Oberholzer-Gee. (1997). The Cost Of Price Incentives: An Empirical Analysis Of Motivation Crowing-Out.American Economic Review, 87, 746-755. Friedland, R. and A. Robertson. (1990). Beyond the Marketplace. New York: Aldine de Gruyter. Friedman, J. (1996). The Rational Choice Controversy. New Haven: Yale University Press. Gerard, B. (1993). The Economics of Rationality. London: Routledge. Goldthorpe, J. (1998). Rational Action Theory For Sociology. British Journal of Sociology, 49, 167-192. Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 53 Granovetter, M. (1985). Economic Action and Social Structure: The Problem Of Embeddedness. American Journal of Sociology 91, 481- 510. Hayek, F. (1991). Economic Freedom. Oxford: Basil Blackwell. Hechter, M. (1990). The Attainment Of Solidarity In Intentional Communities. Rationality and Society, 2, 142-155. Hechter, M. (1992). Should Values Be Written Out Of The Social Scientist’s Lexicon? Sociological Theory, 10, 214-230. Hechter, M. (1994). The Role Of Values In Rational Choice Theory. Rationality & Society 6, 318-334. Hechter, M. and Kanazawa S. (1997). Sociological Rational Choice Theory. Annual Review of Sociology, 23, 191- 214. Hirschman, A. (1984). Against Parsimony: Three Easy Ways of Complicating Economic Discourse. American Economic Review 74, 89- 96. Hodgson, G. (1997). The Ubiquity Of Habits And Rules. Cambridge Journal of Economics 21, 663-684. Hodgson, G. (1998). The Approach Of Institutional Economics. Journal of Economic Literature, 36, 166-192. Homans, G. (1990). The Rational Choice Theory And Behavioral Psychology. In C. Calhoun, M. Meyer & R. Scott (Eds.),Structures of power and constraint. Papers in honor of Peter M. Blau (pp. 77-90). Cambridge: Cambridge University Press. Translated by Nguyen Ngoc My Tien Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 54 Jasso, G. & Opp K. (1997). Probing The Character Of Norms. A Factorial Survey Analysis Of The Norms Of Political Action.American Sociological Review, 62, 947-964. Kalleberg, A. (1995). Sociology And Economics: Crossing The Boundaries. Social Forces 73, 1207-1219. Kiser, E. (1999). Comparing Varieties of Agency Theory in Economics, Political Science, and Sociology: An Illustration from State Policy Implementation. Sociological Theory 17, 146-170. Kiser E. and M. Hechter. (1991). The Role of General Theory in Comparative-historical Sociology. American Journal of Sociology 97, 1- 30. Kiser E. and M. Hechter. (1998). The Debate on Historical Sociology

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhanh_vi_duy_ly_cua_con_nguoi_va_su_duy_ly_mang_tinh_kinh_te.pdf
Tài liệu liên quan