Cây gỗ lớn, cao 35-40 m, đường kính
80-120 m hay hơn, tán hình ô dày, xanh
thẫm. Thân thẳng, hình trụ, phân cành muộn;
vỏ màu nâu đen, nứt thành hình chữ nhật rất
đặc trưng cho loài; vỏ trong dày khoảng 1
cm, màu hồng, có nhựa mủ trắng chảy ra khi
bị cắt. Lá đơn. mọc cách và tập trung ở đỉnh
các cành con, hình trứng ngược thuôn, dài
12-16 cm, rộng 4-6 cm, đầu lá tròn, có mũi lồi
ngắn; lá kèm sớm rụng; khi non lá có màu
hồng hay đỏ nhạt.
5 trang |
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Giới thiệu cây sến mật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SẾN MẬT
Madhuca pasquieri (Dubard) H. J. Lam, 1960
Tên đồng nghĩa: Madhuca subquincuncialis H.J.Lam & Kerpel, 1939; Bassia pasquieri
(Dubard.) Lecomte. 1930.
Tên khác: Sến, sến dưa, sến ngũ điểm
Họ: Hồng xiêm - Sapotaceae
Hình thái
Cây gỗ lớn, cao 35-40 m, đường kính
80-120 m hay hơn, tán hình ô dày, xanh
thẫm. Thân thẳng, hình trụ, phân cành muộn;
vỏ màu nâu đen, nứt thành hình chữ nhật rất
đặc trưng cho loài; vỏ trong dày khoảng 1
cm, màu hồng, có nhựa mủ trắng chảy ra khi
bị cắt. Lá đơn. mọc cách và tập trung ở đỉnh
các cành con, hình trứng ngược thuôn, dài
12-16 cm, rộng 4-6 cm, đầu lá tròn, có mũi lồi
ngắn; lá kèm sớm rụng; khi non lá có màu
hồng hay đỏ nhạt.
Hoa đơn độc hay tập trung thành cụm ở
nách lá, màu trắng hay vàng nhạt. Lá đài 4,
xếp chéo chữ thập; tràng hợp, xẻ ở gốc, có 4
thùy, hình thuôn, có mũi nhọn; nhị đực 12-22;
bầu phủ nhiều lông, 6-8 ô, mỗi ô chứa 1
noãn.
Quả hạch hình trứng hay gần hình cầu,
dài 2-3 cm, có lá đài tồn tại ở gốc.
Phân bố
Cây đặc hữu của Việt Nam; phân bố chủ yếu ở các tỉnh từ Thừa Thiên-Huế trở ra; tập
trung nhiều ở các tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Bắc, Thanh Hóa, Nghệ An và
Hà Tĩnh.
Đặc điểm sinh học
Cây mọc trong các khu rừng nhiệt đới thường xanh hoặc nhiệt đới mưa mùa ở độ cao từ
200-1.000 m. Thường mọc xen với táu lá ruối (Vatica odorata), sao mặt quỉ (Hopea
odoratissima) lim xanh (Erythrophloeum fordii), trám trắng (Canarium album), cà ổi
(Castanopsis indicada), re lá tù (Cinnanomum obtusifolium)…Đôi khi gặp các ưu hợp lim xanh
+ sến mật hoặc sến mật + táu trong các khu rừng nguyên sinh thuộc các khu Đông Bắc hay
Bắc Trường Sơn. Khu Bảo tồn thiên nhiên Hà Lĩnh, huyện Hà Trung, Thanh Hóa được thành
lập nhằm bảo tồn ưu hợp lim xanh + sến mật còn tồn tại rất ít ở Việt Nam. Vườn Quốc Gia Tam
Đảo còn giữ lại hàng trăm cây sến có đường kính lớn. Cây lớn nhất có đường kính 3 m. Cây
ưa đất dầy và ẩm thuộc các loại: sét pha, đất đá vôi, đất cát, sa thạch và thường có đá lẫn. Cây
Sến mật - Madhuca pasquieri (Dubard) H. J. Lam
1. Cành mang hoa và quả; 2. Hoa
non chịu bóng, nhưng cây trưởng thành là cây ưa sáng, tăng trưởng chậm. Cây cho số lượng
quả lớn, nhưng thường bị các loại thú nhỏ như sóc, dơi và chim ăn.
Mùa hoa tháng 6-8; quả chín tháng 11 đến tháng 2 năm sau.
Công dụng
Hạt chứa 20-30% dầu béo,
dùng thắp sáng hay để ăn thay
mỡ lợn. Đây là một loại mỡ ăn
quí, được nhân dân vùng Thanh
Hóa, Nghệ An dùng từ lâu đời.
Dưới triều phong kiến nhà
Nguyễn, dầu sến mật là loại sản
vật đặc biệt mà vùng Thanh-Nghệ
phải mang tiến vua. Công nghệ
chế biến dầu sến cũng giống như
dầu lạc. Hiện nay nhân dân vùng
Thanh hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh
vẫn giữ tập quán thu hạt để ép
dầu sến. Nhiều khu rừng sến đã
được bảo vệ tốt để lấy hạt ép dầu
ăn. Ngoài ra dầu sến còn được sử
dụng trong công nghiệp thực
phẩm và dược phẩm.
Nguyễn Hoàng Nghĩa (1997)
đã đo hàm lượng dầu trong hạt
của 20 cây sến có tuổi khác nhau
ở Tam Qui (thể hiện qua đường
kính và chiều cao khác nhau) đã
cho các số liệu trong bảng trên.
Lượng dầu trong hạt biến động từ
30-46% trọng lượng hạt và không
phụ thuộc vào tuổi của cây.
Gỗ rất tốt, là một trong các
loại gỗ “tứ thiết” của Việt Nam
(bao gồm: đinh, lim, sến, táu). Gỗ
màu đỏ hồng, cứng và nặng (tỷ trọng 0,9-1,15), không bị mối mọt; dùng để đóng bàn ghế, làm
gỗ xây dựng, cột nhà, đóng tàu, làm tà vẹt và trong các công trình bền vững, lâu dài.
Lá và vỏ được dùng làm thuốc chữa bỏng. Viện Quân y 103 ở Hà Tây đã dùng cao vỏ
hoặc lá sến (Maduxin) để chữa bỏng có hiệu quả tốt; nhưng hiện chưa sản xuất được nhiều
thuốc vì thiếu nguyên liệu. Cây sến càng ngày càng bị suy giảm về số lượng. Quả có phần thịt
mềm làm thức ăn cho nhiều loài thú và chim. Sau khi ăn quả, các loài chim thú đã để lại hạt
dưới gốc cây, vì vậy muốn thu hạt, chỉ cần đến những gốc cây sến lớn để thu hoạch hàng năm.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Thu hái và gieo hạt :
Khi quả chuyển từ màu xanh sang màu nâu sẫm, thịt mềm và có màu đỏ là có thể thu hạt.
Có thể thu hái trên cây hoặc nhặt trên mặt đất. Ngâm quả trong nước, bỏ hết thịt quả, rửa sạch
Kết quả phân tích dầu hạt sến
Cây mẹ H(m) D(cm) Mức độ quả
Hàm lượng dầu
(% trọng lượng hạt)
1 12 25 Ít 46,09
2 9 26 TB 44,25
3 13 26 TB 41,83
4 14 45 Nhiều 40,59
5 8 21 TB 40,15
6 13 40 Ít 40,11
7 10 18 TB 39,90
8 11 32 TB 39,77
9 9,5 25 Nhiều 38,62
10 9 33 TB 38,22
11 11 27 Nhiều 37,36
12 8 19 Ít 35,00
13 8 18 TB 34,18
14 11 30 Nhiều 30,16
15 9 28 TB 32,08
16 10 28 TB 30,96
17 10 25 Nhiều 30,90
18 10 18 Nhiều 29,94
19 10,5 30 Ít 29,54
20 8 20 Nhiều 29,29
chỉ còn hạt. Số lượng hạt trong khoảng 600-1.200
hạt/kg; hay trọng lượng 1.000 hạt sến khô thông thường
là 1.650 gr. Hạt có dầu nên phải bảo quản trong cát ẩm.
Hạt được xử lý bằng nước 2 sôi 3 lạnh rồi gieo
thẳng trên luống hoặc gieo vào bầu không cần qua khâu
xử lý hạt. Túi bầu làm bằng nhựa polyethylen, rộng 12-
15 cm, dài 22-25 cm. Hỗn hợp ruột bầu gồm: 80% đất
mặt vườn ươm hoặc đất mặt lấy trong rừng. Đất được
đập nhỏ, sàng kỹ, bỏ hết tạp vật như cành, rễ cây, đá
lẫn… Trộn đều với 15-20% phân chuồng hoai và 1-3%
supe lân theo trọng lượng bầu. Mỗi bầu gieo 2 hạt.
Trường hợp gieo lên luống phải chọn luống cao ráo,
thoát nước, rộng 1m, cao 10-15 cm, khoảng cách giữa 2
luống 30-40 cm. Đất mặt luống phải đập nhỏ, nhặt hết
cỏ rác, đá sỏi, san phẳng. Trộn đều lớp mặt luống với
1,5-2kg phân chuồng hoai và 0,1kg supe lân cho mỗi
mét vuông mặt luống.
Gieo hạt theo hàng. Cự ly hàng 20 cm. Khoảng
cách giữa các hạt 5-10 cm. Mỗi kilogram hạt cần 25-30
m
2
đất mặt luống.
Sau khi gieo phủ kín đất dày 1 cm và tưới ẩm. Một
tuần sau khi gieo hạt sẽ nảy mầm. Cây con trong bầu
hoặc trên luống cần có giàn che bóng khoảng 50%
trong thời gian nuôi dưỡng ở vườn ươm.
Phải thường xuyên nhổ cỏ, phá váng và giữ ẩm cho cây con trong vườn ươm. Thời gian
chăm sóc cây con trong vườn ươm kéo dài 7-8 tháng. Khi xuất vườn, cây con đã có 6-8 lá,
chiều cao đạt 25-30 cm và đường kính cổ rễ 3-5 mm.
Kỹ thuật trồng :
Cây con đem trồng phải khỏe mạnh, không sâu bệnh, không bị gẫy ngọn và héo lá. Trước
khi đem trồng cần tiến hành đảo bầu để dịch chuyển vị trí trong luống. Cây nào bị héo lá cần
loại bỏ hoặc chăm sóc lại trước khi đưa đi trồng.
Trồng rừng :
Đào hố kích thước 30 x 30 x 30 cm; lấp hố bằng lớp mặt xung quanh, trước khi trồng 1-2
tuần. Mỗi hố bón lót:100 g supe lân. Cự ly hố trong hàng là 3 m. Cự ly hàng: 7-12 m. Mật độ
trồng không quá 500 cây/ha. Thường trồng hỗn giao với những loài cây khác khi đó chỉ cần
250-280 cây sến mật/ha.
Thời vụ trồng từ tháng 2 đến tháng 4 ở vùng có mưa phùn, bảo đảm đất đủ ẩm. Những nơi
đất không đủ ẩm trong vụ xuân thì trồng vụ thu, vào đầu mùa mưa từ tháng 7 đến tháng 9.
Chăm sóc:
Sau khi trồng 2-3 tháng, phát bỏ các bụi cây, cỏ dại xâm chiếm, trong phạm vi bán kính 1-
1,5 m xung quanh gốc và đặc biệt trừ dây leo quấn quanh thân cây. Các cây bụi và gỗ nhỏ
ngoài phạm vi trên cần giữ lại để che bóng cho sến mật. Chăm sóc trong 2-3 năm; mỗi năm 2-3
lần.
Phân bố sến mật ở Việt Nam
Khai thác, chế biến và bảo quản
Đến mùa quả chín (chuyển từ màu xanh sang màu nâu thẫm) phải thu hoạch ngay. Mỗi kg
quả chỉ thu được 0,45-0,50 kg hạt. Ước tính cứ khoảng 4-5 kg hạt sẽ ép được 1 kg dầu sến.
Nhân dân địa phương có kinh nghiệm ép dầu sến rất đơn giản. Họ thu nhặt các hạt do các loài
thú ăn quả sến để rơi dưới gốc cây, rửa sạch, phơi khô rồi nghiền nhỏ, đánh tơi, đem đồ hay
hấp chín. Sau khi phơi khô lại và đóng thành bánh, có thể đưa vào ép như ép nhân lạc; dùng
vải màn để lọc và đóng dầu vào chai. Dầu sến có màu vàng nhạt như mật ong, trong và có mùi
thơm, khi dùng rán thực phẩm, không có mùi như mỡ lợn. Riêng rừng sến Tam Qui mỗi năm
cho hàng chục tấn dầu.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Sến mật là loài cây gỗ và LSNG đa tác dụng, hiện nay đã trở thành cây quí hiếm cần được
bảo vệ. Nên khuyến khích nhân dân bảo vệ các khu rừng sến tự nhiên, đồng thời tiến hành
gieo trồng sến mật trên các vườn rừng, vườn gia đình và quanh nhà. Khu BTTN Hà Lĩnh
(huyện Hà Trung, Thanh Hóa) là nơi giữ giống và cung cấp giống để phát triển loài cây LSNG
quí này. Riêng VQG Tam Đảo còn một số lượng lớn các cây sến khổng lồ. Cần đánh số và lập
lý lịch nhằm bảo vệ chúng để các cây đó trở thành những cây lấy giống và là các điểm tham
quan sau này.
Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Huy Bích và cộng sự, 2003. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam.Tập II. Nxb
Khoa học và Kỹ thuật Hà nội: 731; 2. Vu Van Dung (Editor), (1996). Madhuca pasquieri.
Vietnam Forest Trees. Agricultural Publishing House, Hanoi: 667. 3. Hoàng Hòe (Chủ biên),
1996. Cây sến - Kỹ thuật trồng một số loài cây rừng. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội: 45-48; 4.
Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1997. Bảo tồn nguồn gen cây rừng. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt
Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- senmat_7044.pdf