Văn học Việt Nam chặng cuối thếkỷXIX đến những năm đầu thế
kỷXX được coi là giai đọan văn học có tính chất chuyển tiếp, giao thời.
Mặc dù chỉdiễn ra trong nửa thếkỷ, khoảng thời gian ngắn ngủi so với một
nghìn năm văn học trung đại, nhưng đây là giai đoạn có nhiều sựkiện văn
hóa, văn học quan trọng. Văn học giai đọan này có diện mạo, đặc điểm
riêng, với nhiều nét khác biệt so với các chặng trước và sau đó.
Đặc điểm dễnhận thấy trước tiên là sựgắn bó chặt chẽgiữa văn học
và đời sống xã hội. Từnhững biến cốlịch sử, những sựkiện chính trịcho
đến không khí thời đại, tâm lý cộng đồng., tất cả đều được lưu giữtrong tác
phẩm. Không những thế, chính văn chương cũng tác động một cách tích cực,
góp phần tạo nên sựsôi động của đời sống xã hội lúc này.
39 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t ngọn bút,
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
29
tạo nên một sự hòa nhập, tập trung, ăn ý để dồn tụ thành dòng, thành phong
trào sâu rộng lúc này.
** *
Có thể nói tính thời sự, thế sự là đặc điểm nổi bật và xuyên suốt
trong các hiện tượng văn hóa, văn học giai đoạn này (đến mức hầu như
không có ngoại lệ hoặc có chăng cũng rất cá biệt). Tất nhiên ở mỗi xu hướng
cụ thể, đặc điểm này là khác nhau. Ngay trong một dòng, một xu hướng thì
mức độ, sắc thái biểu hiện ở từng trường hợp cũng không giống nhau. Chính
điều này đã khiến cho nền văn học dân tộc vừa nhất quán, thống nhất lại vừa
đa dạng, phong phú.
Bên cạnh các xu hướng văn chương yêu nước, văn chương phúng
thích xã hội đã được trình bày ở trên, còn có nhiều dòng mạch, xu hướng
khác rất đáng lưu ý. Chẳng hạn những tác giả, tác phẩm thuộc xu hướng văn
chương cải cách, đổi mới, hoặc những nhà văn theo khuynh hướng cảm
thương, nhân đạo truyền thống.
Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871) là một trường hợp đặc biệt trong số
các trí thức đương thời. Ông vốn xuất thân nho học nhưng vì theo đạo Giatô
nên bị triều đình cấm, không được phép ứng thí. Năm 1858, ông được giáo
hội gửi sang Phương Tây với mục đích đào tạo thành một chức sắc tôn giáo.
Đây là cơ hội để ông tiếp xúc, học hỏi một cách đầy đủ, có hệ thống về các
lĩnh vực khoa học, kỹ thuật của người Phương Tây. Những tri thức tích lũy
được từ sách vở cùng những điều trực tiếp trải nghiệm ở ngoại quốc đã trở
thành tiền đề cho hàng loạt kế sách duy tân tự cường đất nước của người trí
thức này. Trở về nước vào năm 1861, ông bắt đầu soạn thảo những chương
trình cải cách xã hội đầy tâm huyết để chuyển lên triều đình. Liên tục từ
1863 đến cuối đời, Nguyễn Trường Tộ đã hoàn thành một khối lượng tác
phẩm đồ sộ với 43 bản điều trần, kế sách đề nghị cải cách sâu rộng các lĩnh
vực cơ bản của xã hội Việt Nam, từ chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao,
văn hóa, khoa học kỹ thuật. Các bản luận văn nổi tiếng của ông như Thiên
hạ phân hợp đại thế luận, Dụ tài tế cấp luận, Giáo môn luận... không chỉ
hàm chứa kiến văn uyên bác, mà còn thể hiện một tấm lòng sâu nặng, đầy
tâm huyết đối với nước nhà. Đáng tiếc là dù được đánh giá cao nhưng những
đề nghị rất quan trọng đó đã không được triều Nguyễn áp dụng.
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
30
Tiếp nối tư tưởng canh tân tự cường của Nguyễn Trường Tộ là những
kế sách chấn hưng đất nước của một nhân vật nổi danh khác, Nguyễn Lộ
Trạch (1852 - 1895). Mặc dù không có điều kiện kinh lịch nhiều nơi như bậc
đàn anh nhưng với tư chất thông minh và khả năng học hỏi xuất sắc của
mình, Nguyễn Lộ Trạch cũng đưa ra được những đánh giá về thời cuộc rất
xác đáng cùng những kiến giải giàu tính thuyết phục. Tập luận văn Thời vụ
sách của ông đã kế thừa được tinh thần đổi mới mà Nguyễn Trường Tộ khởi
xướng; đồng thời ông còn biết cách gắn kết ý tưởng cải cách với những giải
pháp có ý nghĩa thực tiễn trong một thời điểm đặc biệt của lịch sử. Điều này
được ông trình bày ngay trong lời dẫn của Thời vụ sách: "Năm Đinh Sửu
niên hiệu Tự Đức thứ 30, người Pháp định trả lại bốn tỉnh và nối lại hòa
hiếu, triều đình vui mừng cho là đã được vô sự, cho nên trong khoa thi hội
đã lấy việc "sứ nước Pháp vào chầu, hòa hiếu hợp lễ" làm đầu đề bài thi.
Đương lúc mắt con cọp còn nhìn đăm đăm chưa ngớt, mà đã vội tỏ ra tự túc
như thế, thì cái chí hướng thế nào cũng đủ biết rồi. Tôi trông thấy đau lòng,
nên viết bài này". Rõ ràng đây không chỉ là những kiến giải về chính trị xã
hội đơn thuần mà còn là những tâm trạng, những nỗi niềm dân quốc sâu
nặng.
Cũng trên mạch vận động canh tân, đổi mới nhưng khác với Nguyễn
Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch, những người chủ trương kiên trì con đường
tâu bày tấu sớ, một nhà nho nổi tiếng khác, Đặng Huy Trứ lại thể hiện tư
tưởng cải cách theo một lối riêng. Đây cũng là người đã đi đến rất nhiều
nước, có kiến văn quảng bác, lại hết sức tinh tế, nhạy bén nên tiếp thu cái
mới rất nhanh. Ông tỏ ra sốt sắng trong việc cổ xúy cho phong trào duy tân
cải cách, đồng thời tự mình thực hành nhiều công việc mới mẻ mong chấn
hưng kinh tế, kỹ nghệ nước nhà. Ông viết sách giới thiệu kỹ thuật của người
Tây, chỉ huy đóng tàu biển chạy bằng hơi nước, lập hiệu ảnh, điều hành họat
động ngoại thương... Không phải mọi cải cách của ông đều thành công song
tác động của những việc ông đã làm được đối với xã hội Việt Nam thời ấy là
không ít.
Đặng Huy Trứ (1825 - 1874), tự Hoàng Trung, hiệu Vọng Tân, Tỉnh
Trai; quê quán ở làng Thanh Lương, huyện Hương Điền, Thừa Thiên Huế là
nhân vật rất nổi tiếng trong giới sĩ lâm Việt Nam thế kỷ XIX. Sự nghiệp trứ
tác của ông rất phong phú với hàng chục cuốn sách các loại (sách sáng tác,
biên khảo, dịch thuật) trải rộng trên nhiều lĩnh vực: triết học, lịch sử, khoa
học, kinh tế... Ông là một trong những nhà duy tân lớn thế kỷ XIX, được coi
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
31
là người "gieo trồng mầm khai hóa ở Việt Nam" (như đánh giá của Phan Bội
Châu). Khi giặc Pháp xâm lược, ông cũng là người đứng vào hàng ngũ các
nhà nho "chủ chiến" ngay từ những ngày đầu. Đây là con người có nhãn
quan thấu suốt, suy nghĩ sâu xa vượt trước thời đại trên nhiều phương diện.
Tác phẩm văn chương của Đặng Huy Trứ gồm 12 tập thơ (1250 bài),
với nhiều tác phẩm có giá trị. Trong dòng văn chương kháng Pháp, bài thơ
Vãng Đà Nẵng quân thứ tức sự của ông có lẽ là một trong những tác phẩm
xuất hiện sớm nhất đề cập đến tình thế căng thẳng trước thời điểm cuộc
chiến nổ ra. Bài thơ được làm vào cuối năm 1856 (khoảng tháng 10), tức là
trước khi cuộc chiến bắt đầu gần hai năm, với lời chú: "Đầu tháng tám,
thuyền Tây dương đến đậu ở cửa Trà Sơn. Án sát Tôn Thất Dũng đem quân
cùng với lãnh binh Phạm Truật lo đối phó. Chưa được một tuần, bọn Tây
dương bắn phá đồn lũy, cướp bóc và bắt giữ quan quân. Việc được tâu lên,
vua sai Trần Hoằng, Đào Trí, Nguyễn Duy đến đánh đuổi. Án sát Tôn Thất
Dũng, lãnh binh Phạm Truật bị cách chức tùy thuộc sự sai phái của các
quan mới cử đến. Ở đây hơn hai tháng, quân dân vất vả để giữ bờ cõi. Đầu
tháng mười, tôi đi khám thuyền qua đây nên có thơ này:
Như kim Đà Nẵng nhất Dương di
Hạp cảnh binh dân bôn mệnh bì
Cửu nguyệt tam thu hàn lạo hậu
Thiên môn vạn hộ khiết khuy kì
Tây chinh sĩ khí phong sương khổ
Nam cố thần trung tiêu cán ti (tư)
Nhục thực ngã như mưu vị quốc
Chiến, hòa, dữ, thủ thục cơ nghi?
(Rợ Tây nay đã kéo đến Đà Nẵng
Quân dân vâng mệnh ra đi giữ bờ cõi trải biết bao vất vả
Sau lụt tháng chín trăm vạn hộ thiếu ăn
Chinh phạt giặc Tây quân sĩ chịu nhiều sương gió
Đoái trông về Nam, nhà vua lo nghĩ ngày đêm
Người ăn lộc nước như ta nếu lo việc nước thì chiến,
hoà, nhường, giữ biết chọn kế nào?)
Nhưng đáng chú ý hơn cả trong thơ văn Đặng Huy Trứ là những bài
viết về cảnh sắc và đời sống dân quê. Nhà thơ đã phát hiện thấy chất thơ, nét
đẹp tiềm ẩn từ những cảnh huống bình dị diễn ra hằng nhật, từ hạt lúa cọng
rơm trở đi. Bài Mễ gia An Cựu là một ví dụ:
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
32
Bất thiểu thiên hương dữ vạn tương
Kỷ như An Cựu bạch nhi hương
Chử tòng nguyệt hạ thiềm vô sắc
Tân thượng phong xuy xạ mạc đương
(Chẳng thiếu gì nghìn kho vạn cót
Nhưng mấy nơi được như gạo de An Cựu vừa trắng
lại vừa thơm
Chày theo trăng xuống, trăng thua sắc
Gió thổi cơm vần, xạ nhạt hương
Đặng Huy Trứ, Gạo de An Cựu).
Hoặc cảm giác sảng khoái khi được thưởng thức những sản vật bình
thường như củ khoai lang, bát nước chè dân dã:
Quát bì mãn tọa hồng đôi cẩm
Trụy phấn doanh bàn bạch điểm sương
Duyệt khẩu thiên nghi hàm giới thái
Thanh tâm tối ái lão trà thang
(Vỏ bóc gấm hồng vun cả đống
Bột rơi sương trắng vãi đầy mâm
Kèm dưa muối xổi ăn ngon miệng
Khoái nước chè già uống nhẹ tâm
Đặng Huy Trứ, Khoai lang đỡ đói)
Qua những vần điệu này, thấy toát lên tình cảm đằm thắm, hồn hậu
của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Cái đẹp bình dị của cuộc sống thôn
quê đã đi vào thơ ông và trở nên sang trọng.
Trong dòng mạch này còn phải kể đến Nguyễn Thông (1827 - 1884),
một nhà hoạt động chính trị đầy tài năng đồng thời là nhà văn với nhiều tác
phẩm rất có giá trị. Sự nghiệp trứ tác của Nguyễn Thông khá đa dạng. Ngoài
các tập thơ: Ngọa du sào tập, Kì Xuyên thi sao, ông còn có Ngọa du sào văn
tập và đặc biệt là một số truyện văn xuôi viết về các anh hùng chống Pháp
trong Độn Am văn tập như Truyện Trương Định, Truyện Hồ Huân Nghiệp,
Truyện Phan Văn Đạt.... Thơ Nguyễn Thông thể hiện một nỗi niềm ái quốc
thiết tha, một mối day dứt khôn nguôi vì cảnh đất đai tổ quốc bị chia xé. Ông
thường nói đến tâm sự "hoài Nam" - nỗi mong nhớ quê hương khắc khoải
một cách kín đáo, đầy ngụ ý qua những sự vật, sự việc thường nhật. Chẳng
hạn bài Phóng giá cô, kể về một chuyện rất bình thường (thả chim đa đa)
nhưng qua đó lại biểu lộ rất rõ tình cảm da diết đối với quê nhà của kẻ ly
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
33
hương. Bài thơ có lời chú thích rất cảm động: "Một người nhà quê già đem
biếu ta mấy con chim đa đa, nói rằng nay tiết mùa xuân, đa đa béo, nấu
cháo rất ngon. Sách xưa gọi chim đa đa là chim "hoài Nam" (nhớ phương
Nam). Ta từ Nam kì ra đây đã 15 năm, thương nhớ quê hương, trông thấy
chim đa đa thương xót ngậm ngùi, nên mở lồng thả cho nó bay đi. Nhân làm
bài thơ ghi lại mối lòng cảm động của ta trong lúc ấy". Tâm sự của Nguyễn
Thông là nỗi niềm "nhớ nước" của một nhà Nho trước sự biến cải, trầm luân
của quê hương xứ sở.
Sự phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn này quả là rất phong
phú, đa dạng. Các biến cố lịch sử đã chi phối sâu sắc đến tính chất, quy luật
vận động của văn học. Thơ văn yêu nước nở rộ, trở thành bộ phận chủ đạo,
có vai trò tích cực trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhưng bên cạnh
cũng có sự góp mặt của các dòng mạch, khuynh hướng vốn đã ổn định, có
tính chất truyền thống khác; đồng thời đây cũng là lúc nảy nọc thứ văn
chương xu thời, thậm chí có cả thứ văn chương nô dịch, văn chương độc
hại... Tất cả đều chịu sự tác động trực tiếp của hiện thực lịch sử, xã hội. Có
thể xem đây chính là đặc điểm nổi trội thứ nhất của văn chương giai đọan
này.
* * *
Giai đọan cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử của văn học dân tộc. Đây là chặng
chuyển tiếp, là buổi giao thời giữa hai thời kì văn học trung đại và văn học
hiện đại. Trong vòng nửa thế kỷ, sau những biến động ghê gớm về đời sống
chính trị, kinh tế, đất nước đã chuyển sang một hình thái xã hội mới và văn
học, với những đổi thay không thể cưỡng lại được, cũng bắt đầu bước dần
sang một thời kì mới.
Sự đổi mới của văn học Việt Nam giai đọan này diễn ra theo một cách
thức rất độc đáo. Trước tiên, loại hình văn học truyền thống (văn học nhà
nho) có sự điều chỉnh khá rõ cả trên phương diện tư tưởng, quan niệm nghệ
thuật lẫn hình thức thể hiện. Nguyên nhân của sự điều chỉnh này không gì
khác là hiệu ứng từ cuộc chiến tranh chống xâm lược, chống đầu hàng của
dân tộc và mục tiêu chính là để thích ứng với đòi hỏi của cuộc sống, của thời
đại. Tất nhiên sự thay đổi này không tạo ra một "cú sốc", một bước nhảy vọt
tức thì nào. Trước và sau mốc thời gian năm 1858, văn học không có những
sự kiện, hiện tượng đột biến; phải chú ý quan sát kỹ mới có thể nhận ra
những dấu hiệu đổi thay trong văn học thời bấy giờ. Đây là thời gian diễn ra
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
34
quá trình tích lũy dần dần các yếu tố mới mẻ nhằm hướng tới những biến đổi
quan trọng và cơ bản về sau.
Những điều chỉnh chủ yếu của loại hình văn chương nhà nho diễn ra
trước hết nằm ở hệ thống đề tài, chủ đề. Vào thời điểm này, vấn đề mang
tính thời sự, cấp bách nhất của đời sống cộng đồng không gì ngoài chuyện
chiến - hòa, sinh - tử, duy tân - thủ cựu. Văn học dù muốn dù không cũng bị
cuốn hút vào vòng xoáy này. Và đương nhiên, những khuôn mẫu văn
chương (vốn rất ổn định) cũng phải biến đổi để kịp thích ứng với yêu cầu
thực tế. Tính chất qui phạm (xét ở phương diện đề tài, chủ đề...) đã có những
thay đổi đáng kể. Mặc dù mới nhìn thoáng qua, diện mạo văn chương có vẻ
vẫn như cũ song thực tế không phải vậy. Vẫn là câu chuyện về những con
người yêu nước, con người trung nghĩa, nhưng hoàn cảnh mà nhân vật nếm
trải lúc này hoàn toàn khác so với những gì từng có trước đây; cũng là
những nguyên lý đạo đức truyền thống nhưng cách biểu hiện đã khác...
Chẳng hạn chuyện chống lại mệnh vua, phỉ báng triều đình mà vẫn được coi
là trung nghĩa; hay nỗi u hoài, mặc cảm tội lỗi của một bộ phận đông đảo
các nhà nho khi nhận ra sự lỗi thời của mình trước thời cuộc; hoặc sự xuất
hiện của những người nghĩa dân anh hùng... là điều chưa từng có hoặc rất
hiếm hoi trong lịch sử văn học nước ta. Ngay đến các vấn đề xã hội, các đối
tượng mà văn chương trào phúng nhằm vào cũng khác: đa dạng, phong phú
nhưng lại tập trung hơn so với những gì mà tiếu lâm dân gian, chuyện
Trạng... từng đề câp đến. Điều này chứng tỏ đã có sự đổi thay trong quan
niệm nghệ thuật, trong thi pháp của các tác giả. Cũng có thể nói một cách
khác, chính những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống, của dân tộc đang diễn
ra trước mắt đã khiến cho nhà văn phải có những điều chỉnh thích hợp. Đây
cũng có thể xem là sự thắng thế của hiện thực cuộc sống đối với những quy
phạm văn chương truyền thống.
Song song với sự tự điều chỉnh của văn học cũ, đây cũng là thời điểm
bắt đầu xuất hiện những yếu tố của một nền văn học mới: văn học quốc ngữ.
Một thế hệ nhà văn mới hình thành, ra tay thực hiện sứ mạng lịch sử của
mình. Bước chuẩn bị cho những đột phá, những cuộc cách mạng văn chương
thực sự sẽ diễn ra trong một tương lai gần đã được khởi động.
Sự hình thành thời đại mới của văn học Việt Nam gắn chặt với sự ra
đời và hoàn thiện chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ, một thành tựu văn hóa lớn
của dân tộc, vốn xuất hiện từ trước đó khá lâu. Ngay từ thế kỷ XVI, với mục
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
35
đích tìm kiếm phương tiện ngôn ngữ để chuyển tải kinh sách đạo Thiên
Chúa sang Việt ngữ, các nhà truyền giáo Phương Tây đã khởi sự việc chế tác
ra thứ chữ lấy tự dạng Latinh làm mẫu này. Quá trình thử nghiệm kéo dài
với sự tham gia của rất nhiều người Phương Tây (trong đó vai trò của A. de
Rhodes rất quan trọng) và các trí thức người Việt đã đạt kết quả mĩ mãn.
Chữ quốc ngữ là một hệ thống chữ viết hiện đại, tiện lợi, nhiều ưu điểm.
Tuy nhiên, thọat đầu thứ chữ này đã không nhận được sự chào đón
của cộng đồng, đặc biệt là giới trí thức Nho học. Phạm vi sử dụng của nó
chủ yếu hạn chế trong khu vực nhà thờ, trong một bộ phận giáo dân và chỉ
dùng vào việc truyền bá Thiên Chúa giáo. Nhưng đến những năm sáu mươi,
khi người Pháp đã xác lập được vị thế của mình ở Việt Nam thì mọi việc
hoàn toàn thay đổi. Chữ quốc ngữ được khuyến khích sử dụng, được đưa
vào dạy trong nhà trường, được dùng trong giao dịch hành chính, dân sự.
Thậm chí, ở xứ Nam kì, vùng đất thuộc địa của thực dân Pháp, chính quyền
còn mạnh tay can thiệp bằng những sắc luật bắt buộc và ban bố những chính
sách khuyến khích quyền lợi cụ thể đối với người biết chữ quốc ngữ. Kết
quả, thứ chữ mới này đã đi vào đời sống, trở nên phổ biến, thông dụng. Đây
là điều kiện thuận lợi cho nền văn học mới hình thành và phát triển.
Cột mốc đầu tiên đánh dấu sự khởi phát của văn chương quốc ngữ
được tính từ năm 1865, tức chỉ mấy năm sau sự kiện giặc Pháp nổ súng xâm
lược Việt Nam. Thực ra trong năm này không có sự kiện văn học nổi bật nào
xảy ra. Sở dĩ lấy mốc 1865 vì đây chính là năm tờ báo quốc ngữ đầu tiên, tờ
Gia Định báo được xuất bản (số ra mắt đề ngày 15/4/1865). Việc ra đời ấn
phẩm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống văn hoá, văn học
nước nhà. Trên tờ báo này, lần đầu tiên những tác phẩm văn chương quốc
ngữ được công bố một cách có hệ thống; diễn đàn này cũng là nơi giới thiệu
những gương mặt quan trọng nhất của lớp nhà văn hiện đại Việt Nam.
Năm 1866 Trương Vĩnh Ký cho in Chuyện đời xưa lựa nhón lấy
những chuyện hay và có ích trên tờ Gia Định báo. Đây là tác phẩm văn xuôi
quốc ngữ đầu tiên xuất hiện chính thức trên một ấn phẩm trong nước (8).
Đúng như tên gọi của nó, những truyện được đăng tải lần đầu trên báo (sau
này, khi in thành sách, tên truyện đổi thành Chuyện đời xưa) chủ yếu phỏng
tác từ những truyện cổ, những giai thoại đã được lưu truyền lâu nay. Tuy
nhiên, điều quan trọng là nó được thể hiện dưới một dạng thức hoàn toàn
khác so với văn xuôi trung đại: tự dạng mới, cách kể mới, giọng điệu mới.
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
36
Văn xuôi quốc ngữ giai đọan này tuy kỹ thuật còn đơn giản, quy mô
tác phẩm thường ngắn gọn, nhưng xu hướng hiện đại hóa về phương diện
hình thức nghệ thuật là rất rõ ràng. Chẳng hạn một chuyện dưới đây:
"Con ruồi bị thưa, bị đập.
Một người kia ở xứ rẫy bái quê mùa. Đến bữa nọ đơm quảy dọn ra
một mâm cúng, con ruồi lên đậu ăn. Thì người chủ giận sao nó có hỗn; mới
đi thưa với quan huyện rằng: Lạy ông, tôi cúng cho cha mẹ tôi, mà con chi
không biết, nó bay lên nó ăn trước, hỗn láo quá lắm. Ông huyện mới biểu
nó: Hễ nó hỗn hào vô phép, thì gặp nó đâu đánh nó đó. Nói vừa buông
miệng, con ruồi ở đâu bay lại, đậu trên mặt ông huyện ấy; thì thằng ấy nói:
Bẩm ông, ông mới xử nó làm vậy, mà nó còn dễ ngươi tới đậu trên mặt ông.
Và nói và giơ tay ra, dang cánh, đánh một vả trên mặt ông huyện xửng
vửng"(9).
Mẩu chuyện này mặc dù có đủ cốt truyện, tình huống, nhân vật, thời
gian, địa điểm ... song thực ra nó mới chỉ là một phác thảo dưới dạng tiểu
phẩm. Có điều qua đây đã thấy bắt đầu ló dạng một kiểu văn xuôi mới mà
tinh thần cốt lõi của nó là: "nói tiếng An Nam ròng", "tiếng thường mọi
người hằng nói", rồi từ đó tiến đến chỗ "Lấy trí riêng của mình mà đặt ra
một câu chuyện tùy theo nhân vật phong tục trong xứ, dường như truyện có
thật vậy" để làm ra những tiểu thuyết theo quan niệm hiện đại (như lời thông
báo thể lệ cuộc thi tiểu thuyết trên báo Lục tỉnh tân văn sau đó mấy năm).
Mặc dù còn sơ giản nhưng nếu so với lối văn xuôi trong các truyện truyền
kì, tiểu thuyết chương hồi... bằng Hán văn thì cách hành văn như trong
Chuyện đời xưa quả là đã thuộc về một phạm trù văn chương mới lạ hoàn
toàn.
Sự khởi đầu mang tính đột phá của một tài năng ngôn ngữ - văn học
như Trương Vĩnh Ký(10) có ý nghĩa rất quan trọng. Nhưng do chỗ loại hình
văn học này quá mới mẻ, lại xuất hiện trong một tình thế đan xen với văn
học truyền thống do vậy quá trình phát triển của nó cũng không hề dễ dàng.
Sau tác phẩm có tính chất tiên phong vừa nêu, chính Trương Vĩnh Ký cũng
phải mất đến mấy năm chuẩn bị mới có những sáng tác tiếp nối theo mạch
này. Cuốn sách theo lối du khảo Chuyến đi Bắc kì năm Ất Hợi (1876) của
ông mãi đến năm 1881 mới được ấn hành. Diện mạo của nền văn học mới
chỉ thực sự lộ diện khoảng những năm tám mươi trở đi với các tác phẩm như
Thầy Lazaro Phiền (Nguyễn Trọng Quản, 1887), mảng sách dịch của
Trương Minh Ký gồm Truyện Phan Sa diễn ra quốc ngữ (1884); Tê Lê Mặc
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
37
phiêu lưu ký (1885); Truyện nhi đồng Francinet (1885); Robinson trên đảo
hoang (1885)... mảng các truyện Nôm phiên âm quốc ngữ của Trương Vĩnh
Ký như Cổ tích tạp bút, Nhị độ mai, Lục súc tranh công (1884), Vân Tiên
truyện (1889)... Tất cả các tờ báo quốc ngữ đương thời, ngoài Gia Định báo
còn có Nhật trình Nam kì (ra đời 1883), Bảo hộ Nam dân (1888), Thông loại
khóa trình (1888), Đại Nam đồng văn (1892), Phan Yên báo (1898), Nông
cổ mín đàm (1901)... đều tham gia đăng tải tác phẩm văn chương, nhất là
truyện văn xuôi quốc ngữ. Điều này đã góp phần tạo nên không khí sôi nổi,
nhộn nhịp của đời sống văn học.
Thực ra, trong lọat tác phẩm văn xuôi quốc ngữ xuất hiện chặng cuối
thế kỷ XIX thì số lượng những sáng tác văn học đúng nghĩa không nhiều.
Những tác phẩm đáng lưu ý nhất của Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản,
Huỳnh Tịnh Của... đang ở giai đọan thử nghiệm. Tuy nhiên, sự bổ sung của
mảng sách dịch tiếng Pháp, Trung Quốc ra chữ quốc ngữ, các tác phẩm chữ
Hán, chữ Nôm trong kho tàng cổ văn dân tộc được phiên âm quốc ngữ... đã
tạo dựng được một nền tảng văn chương chắc chắn. Đây chính là bệ phóng
để văn chương Việt Nam cất cánh trong giai đọan tiếp theo của thế kỷ XX.
* * *
Lịch sử văn học Việt Nam trên con đường phát triển là một quá trình
vận động liên tục, một sự kế thừa, tiếp nối bền bỉ, không ngừng. Với quãng
thời gian nửa thế kỷ, giai đoạn từ giữa thế kỷ XIX đến những năm đầu thế
kỷ XX được xem là giai đoạn chuyển tiếp, một quãng giao thời của văn học.
Tính chất giao thời này sẽ còn được tiếp nối trong vài thập niên nữa, trước
khi văn học có những thay đổi lớn lao để bước vào một thời kì mới. Ở giai
đoạn này, văn học một mặt vẫn đang trong phạm trù văn học trung đại, chưa
thoát ra khỏi sự chi phối của quy phạm mỹ học Á Đông cổ với những đặc
thù về nội dung và hình thức, song đã bắt đầu xuất hiện những yếu tố mới
mẻ làm tiền đề cho những bước phát triển đột phá trong giai đọan kế tiếp. Sự
biến động của lịch sử, của xã hội là nguyên nhân chính tác động một cách
sâu sắc đến đời sống văn học. Văn học giai đoạn này không chỉ tạo ra một
diện mạo riêng, một sắc thái riêng, mà còn giành được một vị trí rất đáng lưu
ý trong toàn bộ tiến trình lịch sử văn học Việt Nam.
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
38
-----------------------
1. Theo sách Đại Nam thực lục chính biên (Quốc sử quán triều Nguyễn, NXB KHXH,
H. 1964), vào thời các chúa Nguyễn, đã có nhiều người Phương Tây làm việc trong các
đơn vị bộ binh. Đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, trong nội các có 4 người được bổ
nhiệm quan chức là J. B. Chaigneau (tên Việt là Nguyễn Văn Thắng), F. Vannier (tên
Việt là Nguyễn Văn Chấn), De Forcant (tên Việt là Nguyễn Văn Lăng) và Desperles; mỗi
người được cấp 50 lính để phục dịch, sai phái.
2. Theo Lịch sử Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 41.
3. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858 -1920, NXB Văn học, 1984, tr.472.
4. Phan Văn Trị (1830 - 1910), người làng Hanh Thông, huyện Bảo An, tỉnh Gia Định
(nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Ông đậu cử nhân khoa Kỷ Dậu (1849), không ra
làm quan, mở trường dạy học ở Phong Điền (Cần Thơ). Ông là người hăng hái và kiên trì
chủ trương đánh Pháp, là một trong những người đề xướng phong trào "tị địa" để chống
giặc trong những ngày đầu chiến tranh. Phan Văn Trị mất năm 1910 ở Phong Điền.
Tôn Thọ Tường (1825 - 1877) cũng người Gia Định, là nhân vật theo Pháp làm
tới chức Đốc phủ sứ ở Nam kì đầu tiên, về sau làm kẻ giúp việc cho lãnh sự Pháp ở Hà
Nội, bị giết năm 1877.
5. Toàn văn bài Tự thuật, số IX (trong số 10 bài) của Tôn Thọ Tường:
Kể mấy mươi năm nước lễ văn
Trời đà xui thế, thế khôn ngăn
Bốn đời chung đội ơn nuôi dạy
Ba tỉnh riêng lo việc ở ăn
Hết sức người theo trời chẳng kịp
Hoài công chim lấp biển khôn bằng
Phải sao chịu vậy thôi thì chớ
Nhắm mắt đưa chân, lỗi đạo hằng
6. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, triều Nguyễn ký hòa ước với Pháp. Sự kiện này đã khiến
văn thân cả nước nhất loạt phản đối. Sôi sục nhất là sĩ phu bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình. Nhằm dẹp yên dư luận, Tự Đức đã xuống chiếu trách cứ văn thân
không hiểu thời thế, hành xử vượt quá bổn phận. Hành động này lại càng làm cho sĩ phu
bất bình. Họ đã làm tờ tấu phản bác và phê phán nặng nề triều đình hèn đớn, đồng thời
khẳng khái: "Thánh chỉ nói như thế, chúng tôi không dám vâng theo" (Hợp tuyển thơ văn
Việt Nam 1858 -1920, sđd, tr. 467).
7. Nguyễn Văn Lạc (1842 - 1915), cũng còn gọi là Học Lạc, người làng Mỹ Chánh, Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang. Ông là người thông minh, sắc sảo; hay làm thơ trào phúng nhưng
không để lại thi tập nào.
Huỳnh Mẫn Đạt (1807 - 1883), người làng Tân Hội, huyện Tân Long, Gia Định
(nay là TP HCM), đậu Cử nhân năm 1831; làm quan đến Tuần phủ dưới triều Tự Đức.
Ông làm nhiều thơ văn đả kích giặc Pháp và tay sai nhưng không để lại thi tập nào.
8. Theo tư liệu của nhà nghiên cứu N.I. Niculin, tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ xuất
hiện sớm nhất là cuốn Sách sổ chép các việc của Philip Bỉnh được hoàn thành tại Lisbon
Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
39
năm 1822. Cuốn sách kể về chuyến phiêu lưu của tác giả (chạy trốn khỏi các thế lực giáo
hội), vượt qua ba đại dương như thế nào. Vị Thầy Cả này đã viết nhiều sách bằng chữ
quốc ngữ trong khoảng thời gian sống ở Bồ Đào Nha (từ 1796 đến khoảng 1832). Tuy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khxhvh0007_p1_5464.pdf