Giáo trình văn học trẻ em (dùng cho ngành gd mầm non – hệ đào tạo từ xa)

 Khái niệm: Văn học trẻ em là những sáng tác do các em viết và do các

nhà văn chuyên nghiệp viết cho các em, bao gồm những tác phẩm có mặt trong

văn học truyền miệng của dân tộc cho tới những tác phẩm hiện đại, gồm cả

những tác phẩm trong nước và ngoài nước.

2. Các bộ phận cấu thành:

Văn học trẻ em gồm hai bộ phận lớn:

- Văn học dân gian trẻ em.

- Văn học viết trẻ em

Trong mỗi bộ phận lại có 2 loại tác phẩm:

+ Những sáng tác cho trẻ em.

+ Những sáng tác của trẻ em.

3. Đặc trưng thơ văn cho trẻ em

pdf42 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 4856 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình văn học trẻ em (dùng cho ngành gd mầm non – hệ đào tạo từ xa), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n toàn phù hợp với tầm nhận thức đứa trẻ nhỏ. b) Về hệ thống nhân vật: - Số lượng nhân vật trong truyện cổ tích không nhiều và các nhân vật ấy đều có tham vọng trở thành nhân vật chính, can thiệp vào sự phát triển của nội dung cốt truyện. - Sự phân tuyến (cực hoá) của nhân vật cổ tích. Các nhân vật trong truyện cổ tích không mang tính hai mặt. Chúng không phải là vừa thiện vừa ác, vừa tốt vừa xấu như là con người trong hiện thực. Một sự cực hoá chiếm ưu thế trong đầu óc đứa trẻ. Mỗi nhân vật hoặc cực tốt, hoặc cực xấu. Người anh thì ngu ngốc người em thì thông minh, cô chị thì tham lam, ti tiện, cô em thì hiếu thảo, thật thà, tốt bung... Sự đối lập các nhân vật ấy giúp đứa trẻ nhận thức một cách rõ ràng, dễ dàng hơn những khác biệt giữa chúng, điều mà chúng không thể nhận ra được nếu các nhân vật chứa đầy vẻ mâu thuẫn và phức tạp của chúng như là trong đời sống hiện thực. Từ đó bản thân em tự mình đồng hoá vào loại nhân vật nào, các em quyết định sự lựa chọn bằng cách vui lòng tự đối chiếu mình theo nhân vật. Điều này đặt các em vào những cảm xúc mãnh liệt: yêu thương cái tốt, căm ghét cái xấu, ủng hộ cái thiện, bài xích cái ác. Cổ tích thần kỳ tác động mạnh mẽ vào miền tình cảm, hơn là miền lý trí. Các em vui buồn, hờn giận, yêu thường cùng với nhân vật trong cổ tích: Tấm Cám, Cây khế, Thạch Sanh, Xin chôn núi vàng, A.I.Oga, Cô bé lọ lem... c) Truyện cổ tích mô tả một cách trực tiếp các xung đột, các mâu thuẫn. Các em sẵn sàng đối đầu với những khó khăn của truyện kể, điều này giúp các em tinh thần vượt khó, không ngại khó khăn, cản trở trong học tập cũng như trong cuộc sống: Thạch Sanh đánh trăn tinh, Tấm đương đầu với mụ dì ghẻ, người anh hùng đánh rồng lửa, trâu đoàn kết giết hổ, nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn... Truyện cổ tích hướng về tương lai và làm người hướng dẫn cho trẻ, truyện giúp các em từ bỏ những ước muốn ấu trĩ trong sự lệ thuộc để vươn tới một cuộc sống độc lập một cách thoải mái hơn. 2. Truyện cổ tích - hình thức nghệ thuật độc đáo a) Nét sáng tạo nghệ thuật nổi bật của truyện cổ tích là yếu tố kỳ diệu hay lực lượng thần kỳ . Chúng có sức hấp dẫn, đặt biệt đối với tuổi thiếu nhi.Cổ tích với lực lượng thần vô cùng phong phú, đa dạng. Vật thần kỳ: Búa thần, cung tên thần, hòn ngọc ước... Người thần kỳ: Ông tiên, ông bụt, mụ phù thuỷ... Con vật thần kỳ: Phượng hoàng, ngựa ỉa phân vàng, trăn thần... Lực lượng vô hình: Cổ tích còn sáng tạo ra một thế giới hoàn toàn riêng biệt - đích thực là thế giới của cổ tích: Thuy cung, âm phủ, tiên cung... một thế giới vừa hư vừa thực. Sự hỗn tạp của thế giới thần kỳ có tác dụng phát huy không ngừng trí tưởng tượng của các em, mở ra trước mắt các em một chân trời mơ ước vừa quen thuộc vừa kỳ lạ. Không có những điều kỳ diệu gây niềm hy vọng cho chúng ta thì chúng ta không đủ sức mạnh để vững bước trên đường đời đầy chông gai này. Nhất là đối với trẻ thơ, những hình ảnh kỳ vỹ và huyền hoặc ấy cần được giữ gìn. Nếu thiếu nó cuộc sống trẻ thơ sẽ trở nên tẻ nhạt, vô ý nghĩa, nghèo nàn. b) Việc lặp đi lặp lại của các hành động, sự kiện: nhằm thử thách nhân vật cổ tích, hình thành cho các em đức tính kiên trì, tập cho các em thói quen hãy mạnh dạn thử và làm lại và nhất định sẽ thành công. Từ đó ác em cảm thấy tin tưởng vào khả năng và sức mạnh ý chí của mình. Người đi câu câu mãi mới được con cá măng, muốn lấy được viên ngọc ước phải vượt qua suối lửa, núi cao, sông sâu... c) Cách giới thiệu thời gian phiến định quá khứ xa xăm: Ngày xửa, ngày xưa tại một làng nọ, một quốc vương nọ... nhằm đánh lửa cảm giác người nghe, riêng đối với trẻ thơ lại tin tưởng rằng câu chuyện là có thật, hoàn toàn có thể xảy ra đâu đó xung quanh chúng ta. Truyện cổ tích có thể kể về bất kỳ cái gì, bất kỳ ai tồn tại gần gũi xung quanh các em. d) Bằng lối kết thúc có hậu với sự ban thưởng xứng đáng cho nhân vật chính nghĩa và sự trừng phạt cho nhân vật phi nghĩa, truyện cổ tích đã làm yêu lòng trẻ thơ, lấy lại niềm tin đích thực cho các em vào cuộc sống bình đẳng, tốt đẹp của thế giới loài người. Và chúng ta nhớ rằng không có gì nguy hại bằng việc đánh mất niềm tin ở trẻ thơ. e) Truyện cổ tích kể với các em bằng một ngôn ngữ, một giọng điệu hết sức đặc biệt. Nó đóng vai trò như một người bạn chân thành, một người mẹ thân yêu, một người bà đáng kính đang thủ thỉ, tâm tình, trò chuyện cùng em, hiểu được những nỗi buồn vui của em, chia xẻ cùng em những nổi bức xúc thường nhật. Truyện cổ tích (thần kỳ) đi vào cả những bữa ăn, giấc ngủ của các em và theo em suốt cả thời gian năm tháng của cuộc đời. TRUYỆN NGỤ NGÔN I- KHÁI NIỆM TRUYỆN NGỤ NGÔN Nói đến Truyện ngụ ngôn người ta hay nghĩ tới các tác giả như Edốp (nhà sáng tác ngụ ngôn nổi tiếng của Hy lạp cổ đại), Phedơvơ (La mã cổ đại), Laphôngten (Pháp thế kỷ XVII) ở phương Tây; Trang Tử ( Trang Chu - Triết gia Trung Quốc cổ đại), Liệt Tử ( Trung Quốc ) phương Đông. Các nhà tư tưởng đã lâu hay dùng thể văn ngụ ngôn để diệt đạt các tư tưởng, các quan niệm của mình. Với thể văn ấy, các ý niệm trừu tượng có thể diệt đạt một cách cụ thể và do đó dễ phổ cập hơn. - Ngụ ngôn: Nghĩa là lời nói ở trong có gửi gắm cái gì đó, một ý tứ gì đó. - Truyện ngụ ngôn là một loại truyện chứa đựng trong nó một sự tích hoàn toàn tưởng tượng, mang quan niệm triết lý hay đạo đức, một kinh nghiệm sống đã được tổng kết. Và như vậy truyện ngụ ngôn có hai phần: Phần cụ thể là truyện kể, phần trừu tượng là ý niệm rút ra từ truyện đó, có thể gọi là lời quy châm. Với tư cách là một thể loại truyện ngụ ngôn có những đặc điểm sau đây: - Truyện ngụ ngôn mượn thế giới loài vật và thế giới đồ vật để nói về con người. (con người đóng vai trò thiết yếu). Mỗi truyện ngụ ngôn là một ẩn dụ lớn. - Mục tiêu của truyện ngụ ngôn là bài học triết lý. Khi nào đạt tới bài học triết lý thì truyện ngụ ngôn kết thúc. Bài học triết lý được xây dựng thông qua hình tượng. Vì vậy triết ký truyện ngụ ngôn không bao giờ là một thứ triết lý khô khan. - Cũng như truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn được sáng tác nhằm mục đích giáo dục trẻ em nhưng truyện cổ tích giáo dục bằng bản thân hình tượng còn truyện ngụ ngôn giáo dục bằng bài học triết lý. II - NỘI DUNG, Ý NGHĨA TRUYỆN NGỤ NGÔN Khi sáng tác truyện ngụ ngôn người ta phân biệt cốt truyện , tức là những sự kiện cụ thể với lời qui châm - tức là ý niệm trừu tượng. Cốt truyện chỉ là phương tiện, còn lời qui châm mới là mục đích. Xét đến cùng thì truyện ngụ ngôn là sản phẩm của sự tưởng tượng, nhưng sản phẩm đó được tạo ra theo yêu cầu của lý trí, dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của lý trí. 1. Từ lối nói bằng hình tượng đến truyện ngụ ngôn - Truyện ngụ ngôn chỉ có thể hình thành với một trình độ phát triển tương đối cao của tư duy loài người. Lúc đầu, người nguyên thuỷ không thể sáng tác được truyện ngụ ngôn gồm hai phần tách bạch là sự tích cụ thể và ý niệm trừu tượng ngụ trong sự tích ấy. Loài người nguyên thuỷ xưa sống gần gũi với thiên nhiên, con người chưa ý thức được về bản thân mình một cách rõ rệt. Để phục vụ cuộc sống hàng ngày người nguyên thuỷ phải để ý tới đặc điểm của từng loài vật để săn bắn có hiệu quả, mặt khác còn để tự vệ. Người ta gán cho các vật những tình cảm của nhân loại. Thần thoại phát sinh bên cạnh các loại truyện về động vật. Các truyện về động vật là một kho tri thức về “khoa học tự nhiên” của người xưa. ở những truyện này tuy con vật mang tình cảm con người nhưng không có ý định qua xã hội loài vật để nói về xã hội loài người xưa. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng truyện động vật là một trong những loại truyện tiền thân của truyện ngụ ngôn. Đa số truyện ngụ ngôn bắt nguồn từ truyện động vật. - Truyện ngụ ngôn là một cách nói tỉ dụ (ví von) của nhân dân. Đặc điểm ngôn ngữ của nhân dân là cụ thể và hình tượng: cao như sếu, thấp như vịt, nhanh như cắt, chậm như sên, nhạt như cáy, dữ như cọp, thân lừa ưa nặng, chó cùng dứt dậu, tiu nghỉu như méo cắt tai, nhăn nhó như khỉ ăn ruốc... Dần dần cách nói bằng ví von hình tượng ấy kết hợp với truyện động vật phát triển thành truyện ngụ ngôn. Cáo mượn oai hùm (thành ngữ) + truyện động vật trong thần thoại Con cáo giảo hoạt, con hùm dũng mãnh = truyện ngụ ngôn. 2. Truyện ngụ ngôn và triết lý ứng xử dân gian - Trước hết phải thấy rằng truyện ngụ ngôn phản ánh trí tuệ nhân dân, là kho tàng truyện ngụ ngôn chứa đựng triết học của nhân dân. Tư tưởng triết học của nhân dân có thể tìm thấy trong tất cả các loại hình của văn học dân gian, nhưng nó tập trung nhất ở truyện ngụ ngôn. Tư tưởng triết học thể hiện ở các cấp độ: - Truyện ngụ ngôn nêu lên những bài học Rất nhiều truyện ngụ ngôn nói lên những kinh nghiệm mà nhân dân rút ra được trong cuộc sống. Những kinh nghiệm hiện nay tuy chưa vượt lên thành một ý niệm triết học thực sự, nhưng cũng đúc kết thành những bài học thiết thực, bổ ích: Cáo mượn oai hùm, Quạ mặc lông công: khuyên người ta nên tự lực mà hành động, không nên dựa vào người khác, hám hư danh mà chuốc lấy thảm hoạ. Con Dơi, loài chim và loài thú: Phê phán hạng người tráo trở hai mặt. - Một số truyện ngụ ngôn đề cập đến những quan niệm triết học Những truyện ngụ ngôn này có ý nghĩa sâu sắc hơn + Vấn đề nhận thức thế giới: Xẩm xem voi: Xét một vật phải xét toàn diện. Con cò và con đom đóm: Không nên đánh giá thực tại khách quan qua kinh nghiệm chủ quan. + Nhận thức về sự vận động của vạn vật: - Ông vua Chàm nuôi khỉ, Kéo cây lúa lên. Triết học trong truyện ngụ ngôn là một thứ triết lý tích cực, triết lý hành động. Con đường đi tới triết lý của truyện ngụ ngôn là con đường thông qua sự phê phán phủ nhận để để rút ra kết luận. Vì vậy màu sắc phê phán trong truyện ngụ ngôn thể hiện rất rõ. Răn dạy bằng mặt trái của cuộc sống, truyện ngụ ngôn đã tạo cho mình một sức thuyết phục mạnh hơn là trực tiếp nêu lên sự thật của lẽ phải. 3. Truyện ngụ ngôn và đấu tranh giai cấp Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giai cấp luôn diễn ra quyết liệt, truyện ngụ ngôn không nằm ngoài nội dung phản ánh đó. Truyện ngụ ngôn là một vũ khí lợi hại của nhân dân thời trước để chống lại giai cấp thống trị. - Phản ánh bản chất tham lam, tàn bạo, đạo đức giả của giai cấp thống trị Con hổ ăn chay: Bản chất giai cấp thống trị không thể thay đổi, sự tu nhân tích đức đối với chúng chỉ là giả tạo, lừa dối mà thôi. - Những hành vi hống hách, cậy quyền cậy thế của giai cấp thống trị Cọp, cò, cáo và chuột; Chèo bẻo và ác: nhân dân lao động không thể nào đáp ứng được cách sống vô lý của bọn thống trị. - Phê phán những tên tay sai, nịnh hót, vô liêm sỉ Bồ câu và sáo: Những kẻ ra luồn vào cúi đáng sống kiếp giam cầm. Hai thứ mọt: Mọt quan tham mới thực nguy hiểm. Ngụ ngôn thiên về mặt giáo dục hơn là phán ánh hiện thực cuộc sống như truyện cổ tích. Nhìn chung, đối với giai cấp thống trị và bè lũ tay sai truyện ngụ ngôn khuyên người ta nên cảnh giác và xa lánh. Bài học về thái độ dứt khoát đoạn tuyệt với kẻ thù, bao hàm một sự phản kháng tích cực. Với tư cách là loại triết lý dân gian, truyện ngụ ngôn đã làm trọn được chức năng giáo dục của mình. III- NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGỤ NGÔN - Truyện ngụ ngôn sử dụng biện pháp so sánh, ví von. Cái khó của truyện ngụ ngôn là xây dựng truyện làm sao cho từng sự vật có thể tiêu biểu cho một hạng người nhất định, nhưng vẫn giá được đặc trưng của nó - thể hiện một cách tự nhiên, hợp lý không gò bó. Cao cáo: tinh ranh xảo quyệt. Con lừa: chậm chạp, vụng về Con hổ: dũng mãnh. Con thỏ: mưu trí - Tích chất kịch: Mỗi truyện ngụ ngôn là một vở kịch nhỏ. Trong vở kịch ấy, mâu thuẫn giữa những hoàn cảnh, sự việc, giữa những tình cảm nhân vật thường được nêu ra một cách sắc nét. Có những tình huống bất ngờ gây kịch tính. - Truyện ngụ ngôn có tính chất thơ ngây trong bản thân nội dung của nó. - Tiếp xúc truyện ngụ ngôn, óc tưởng tượng được phát huy cao độ, phù hợp với cảm nghĩ ngây thơ của trẻ. Tóm lại: Truyện ngụ ngôn là kho tàng tri thức của nhân dân, phản ánh cuộc đấu tranh cho một cuộc đời tốt đẹp hơn, phán ánh sự vươn lên không ngừng của tư duy trong việc nhận thức thế giới và xã hội loài người. CA DAO - ĐỒNG DAO I. CA DAO 1. Khái niệm ca dao - dân ca: Đều thuộc thể loại trữ tình dân gian. a. Ca dao - Xét theo nghĩa gốc của từ nguyên thì “Ca” là bài hát có chương khúc, giai điệu được quy định rõ rệt (người hát không tự thay đổi được), còn “dao” là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc (bài hát trơn, có thể hát tự do, không quy định chặt chẽ về nhạc điệu). - Nếu dựa vào cách giải thích trên thì về cơ bản, Ca dao và dân ca đồng nghĩa với nhau. - Trong sách “Trung Quốc ca dao” của Chu Tự Thanh (bản dịch của GS Đinh Gia Khánh, tư liệu trường ĐHTH Hà Nội) liên quan đến Ca và Dao như sau: “Ca” là bài hát có hoà với nhạc, còn “Dao” là lời của các bài hát đó. Dao là một thành tố của ca và có thể sử dụng trong nhiều bài ca khác nhau. Như vậy, trong thư tịch cổ Trung Quốc chỉ có khái niệm “Ca” “Dao” chứ không có thuật ngữ ghép ca dao, dân ca như ở Việt Nam. Tuy nhiên, không phải toàn bộ phần lời trong dân ca thì đều là ca dao, mà chỉ là phần lời cốt lõi có kết cấu bền vững, ổn định và có tính trữ tình (không kể những tiếng đệm, láy đưa hơi), (về trữ tình những bài hát giặm). Vậy chỉ có thể nói: Ca dao là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất của thơ dân gian, là loại thơ dân gian truyền thống có phong cách riêng được hình thành và phát triển trên cơ sở của thành phần nghệ thuật ngôn từ trong các loại dân ca trữ tình ngắn và tương đối ngắn của người Việt. Ca dao là những bài hát có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân tộc (thường là lục bát) để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm. Còn dân ca là những bài hát có hoặc không có chương khúc do nhân dân sáng tác lưu truyền trong dân gian ở từng vùng hoặc phổ biến ở nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị đặc biệt về nhạc. Khi nói đến dân ca người ta nghĩ đến cả ba yếu tố cơ bản cấu thành nó: âm nhạc, lời ca và phương thức đối xứng. Còn ca dao là bộ phận nghệ thuật ngôn từ chắt lọc từ hệ thống lời ca đó. 2. Nội dung của một số bộ phận ca dao phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ. 2.1. Ca dao phản ánh cuộc sống lao động cần cù, chất phác của nhân dân ta, tuy vất vả, khổ cực nhưng không bao giờ bi quan. Ví dụ: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bá cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần Hoặc: Rủ nhau đi cấy đi cày Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa Ơn trời mưa nắng phải thì Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu Công lênh chẳng quản bao lâu Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu. 2.2. Ca dao thể hiện tình cảm đối với xóm làng, quê hương, đất nước. Đất nước ta rất giàu và đẹp, trong ca dao lại càng giàu đẹp hơn. Ví dụ: - Sông Tô nước chảy trong ngần Con thuyền buồn trắng chạy gần chạy xa Thon thon hai mũi chèo hoa Lướt đi, lướt lại như là bướm bày - Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ Ai vô xứ Nghệ thì vô - Đường đi quanh quất ruột dê Chim kêu vượn hú dựa kề bên non - Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi - Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm - Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương Mịt mù khói toả ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ. 2.3. Ca dao thể hiện tình cảm yêu thương quý mến đối với gia đình. Tình cảm của con cái đối với cha mẹ hoặc ngược lại, tình cảm anh em ruột thịt, tình bạn bè gắn bó keo sơn. Đặc biệt đối với cha mẹ là người sinh thành dưỡng dục, có nhiều kinh nghiệm sống mà con cái phải yêu thương, kính phục, tôn trọng và biết ơn. Từ lâu nhân dân ta đã truyền tụng: - Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. - Gió mùa thu mẹ ru con ngủ Năm canh chầy thức đủ năm canh - Ơn cha nặng lắm ai ơi Ơn mẹ bằng trời chín tháng cưu mang - Chim trời ai dễ đếm lông Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày - Trèo non mới biết non cao Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy - Anh em nào phải người xa Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân Yêu nhau như thể tay chân Anh em, hoà thuận hai thân vui vầy - Bạn bè nghĩa tương tri Sao cho sau trước một bề mới thân - Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông Công cha nghĩa mẹ ghi lòng con ơi Anh em như thể tay chân Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần. 3. Nghệ thuật: 3.1. Sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc, giàu nhạc điệu, giàu hình tượng, trữ tình. 3.2. Ngoài ra, tác giả ca dao còn sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật khác như so sánh, ví von, nhân cách hoá, ẩn dụ, trùng điệp 4. Tác dụng ca dao đối với trẻ em. Ca dao đến với trẻ em từ rất sớm qua lời ru, tiếng hát của người thân. Âm thanh, nhịp điệu và không khí dân ca trữ tình để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn trẻ, ca dao là dòng sữa ngọt ngào nuôi trẻ lớn khôn. Qua đó trẻ cảm nhận được vẻ đẹp ngôn ngữ, cảm nhận được tâm tư tình cảm của người dân lao động một nắng hai sương, cảm nhận được quan điểm đạo đức, lối sống và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc nghìn năm văn hiến. Từ đó, giáo dục trẻ lòng yêu quê hương đất nước, lòng biết ơn, tôn kính, ngưỡng mộ về quá khứ vẻ vang của con người Đại Việt chúng ta. Tóm lại, ca dao là những hòn ngọc vô cùng quý giá từ xưa để lại. Đó là tiếng nói tình cảm của nhân dân đối với đất nước, là mồ hôi nước mắt của nhân dân trong đấu tranh và xây dựng, là trí tuệ và tình thương yêu của nhân dân đối với thiên nhiên, xã hội và con người. Những câu ca dao mượt mà ấy thấm sâu vào tâm hồn trẻ thơ sẽ có tác dụng lớn lao trong việc bồi dưỡng tình cảm, hình thành nhân cách và khơi dậy ở trẻ niềm tự hào về con người, về quê hương đất nước. II. ĐỒNG DAO Trong văn học dân gian của các dân tộc trên thế giới, ít nhiều đều có bộ phận sáng tác danh cho trẻ em hoặc chủ yếu hướng về trẻ em. Đó là lí do và sơ sở khiến cho khái niệm Văn học dân gian thiếu nhi đã và đang hình thành trong hoạt động nghiên cứu văn học dân gian của nhiều nước trên thế giới. Văn học dân gian thiếu nhi của người Việt phát triển khá sớm và chủ yếu tập trung ở hai lĩnh vực truyện kể và thơ ca. 1. Định nghĩa. Đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Đồng dao có thể bắt nguồn từ các hình thức thơ ca dân gian của người lớn và được người lớn tham gia sáng tác sử dụng, nhưng chủ yếu phù hợp với thế giới quan và tâm sinh lý trẻ em và do trẻ em trực tiếp lưu luyến, diễn xướng. 2. Nội dung: 2.1. Đồng dao giúp các em hiểu biết, học hỏi mở mang trí tuệ, giáo dục kiến thức thực tế cho các em. Với các em trước tuổi đi học, đồng dao như người thầy dạy cho các em những khái niệm đầu tiên về thiên nhiên, đất nước con người. Thế giới đồng dao là một thế giới sinh động phong phú, chứa chan sức sống và màu xanh. Trong đồng dao có đủ những con vật gần gũi với cuộc sống xung quanh trẻ như: con trâu, con chó, con lợn, con gà, con voi, con công, con nghé cho đến con cò, con cua, con tôm, con ốc, con ve, con kiến. Ví dụ: - Tập tầm vông, con công hay múa - Con vỏi, con voi - Con gà tục tác lá chanh - Con mèo con chó có lông - Con cua tám cẳng, hai càng - Con cò mà đi ăn đêm - Trời trưa Quả dưa vẹo vọ Con ốc nằm co Con tôm đánh đáo Con cò kiếm ăn Đối với người lớn, có thể đây là những vần thơ ngô nghê, buồn cười nhưng đối với các em là những kiến thức khoa học thường thức rất nhiều thiết thực, bổ ích. Nó dạy cho các em về các bộ phận cấu tạo, các đặc điểm của các con vật, sự vật trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. 2.2. Đồng dao giúp các em học mà chơi, chơi mà học. Một số bài hát đồng dao gắn với trò chơi của trẻ. Nhờ có lời mà trẻ ham thích chơi, nhờ có luật chơi mà trẻ ham thích đọc lời. Các em vừa hát vừa đọc, vừa chơi. Tình cảm chủ yếu được các em thể hiện trong khi hát để trò chơi. Đó là niềm vui sướng hân hoan, phấn khởi và yêu đời của tuổi thơ khi được tụ họp với nhau, nô đùa, ca hát. Ví dụ: - Chi chi chành chành - Dung dăng dung dẻ - Kéo cưa lừa xẻ - Rồng rắn lên mây.. - Bịt mắt bắt dê - Nu na nu nống - Chồng nụ chồng hoa Thông qua các trò chơi hoạt động nhạy cảm, ca hát, đồng dao rèn luyện trẻ thơ về mặt thể lực, góp phần nâng cao năng lực vận động, giúp trẻ hoạt bát, năng động, thoải mái tự tin, hồn nhiên cho tâm hồn trẻ thơ. Tác giả dân gian đã rất tài tình khi tìm cho trẻ những hình thức sinh hoạt văn hoá, tinh thần thích hợp nhất và bổ ích nhất. 2.3. Đồng dao góp phần quan trọng vào việc phát triển, trau đồi ngôn ngữ cho các em, rèn luyện cho các em cả về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp. Trẻ em lớn hát trẻ em bé bắt chước, trẻ em học nói bằng đồng dao. Khi trẻ bắt đầu bập bẹ tập nói, anh chị, bố mẹ, ông bà những người thân trong gia đình đã dạy trẻ nói bằng những câu đồng dao đơn giản, ngắn gọn và dễ phát âm như: - Ô nô ốc nốc - Dâm dâm, da da - Chi vi, chi vút - Chi chi chành chành - Dung dăng dung dẻ Dần dần, qua lời của các bài hát đồng dao, cùng nhịp điệu, âm thanh, khiến trẻ rất thích thú học thuộc nó. Bên cạnh đó còn có những động tác tương ứng kèm theo như vung tay, lắc đầu, dậm chân tạo nên sự hứng thú cho trẻ, luyện cho trẻ thói quen hát lời nhịp nhàng với những động tác vận động ấy. Quá trình đó giúp trẻ phát âm ngày càng rõ, đọc hát được những câu ngắn và tiến lên hát được cả bài hát. Đồng dao đã dạy trẻ học nói đúng nghĩa, đúng cấu trúc ngữ pháp. Nhìn chung, đồng dao thiên về thông tin truyền đạt kiến thức hơn là phản ánh tư tưởng, tình cảm. Trong nội dung kiến thức lại nặng về kiến thức tự nhiên hơn là kiến thức lịch sử - xã hội và điều đó phù hợp với nhu cầu và trình độ nhận thức của trẻ em. 4. Nghệ thuật 4.1. Đồng dao thường sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ và thể lục bát có vần điệu, dễ đọc, dễ nhớ, dễ thuộc. 4.2. Ngôn ngữ mộc mạc, hồn nhiên, bình dị, nhiều từ láy, nhiều tiếng tượng hình, tượng thanh sinh động phong phú, phù hợp với tâm hồn, tình cảm trẻ thơ. Tóm lại, với Đồng dao, trẻ em thực sự hoà nhập vào thiên nhiên, sống với thiên nhiên, hiểu thiên nhiên theo cách hiểu trẻ thơ. Có thể xem đồng dao là những bài học vui nho nhỏ. Bài học đó vừa giúp các em vui chơi, ca hát, vừa giúp các em quen với một số kiến thức về khoa học hiện tượng, sự vật trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Đồng dao đến với trẻ em đã làm trọn chức năng giáo dục tư tưởng tình cảm, giáo dục thẩm mỹ - đạo đức của mình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtmn0027_p1_804.pdf
Tài liệu liên quan