Giáo trình mô đun ”Trồng và chăm sóc chuối” được biên soạn dựa trên
cơ sở tổng kết các kinh nghiệm và quy trình kỹ thuật trồng chuối nhằm cung
cấp cho người học những kiến thức, kỹ năng thực hiện các công việc trồng và
chăm sóc chuối đạt hiệu quả kinh tế cao. Giáo trình được kết cấu thành 06 bài:
Bài 1: Làm đất trồng chuối
Bài 2: Trồng chuối
Bài 3: Làm cỏ, bón phân cho chuối
Bài 4: Tưới tiêu nước cho chuối
Bài 5: Cắt lá, bẻ hoa, tỉa chồi, chống đổ ngã cho chuối
114 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 732 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Trồng và chăm sóc chuối, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành cây phân xanh rất quý.
Thời gian gần đây, cùng với những tiến bộ của khoa học và công nghệ,
các nhà khoa học đã sử dụng công nghệ gen để tạo ra các chủng vi sinh vật cố
định đạm có nhiều đặc điểm tốt: khả năng cố định đạm cao, khả năng cộng sinh
tốt. Công nghệ sinh học cũng giúp tạo ra những chủng vi sinh vật có đặc tính
cạnh tranh cao với các loài vi sinh vật trong đất. Mặt khác, công nghệ sinh học
đã cho phép các nhà khoa học tách được gen quy định đặc tính cố định đạm từ
vi khuẩn và đem cấy vào nhân tế bào cây trồng, làm cho một số loài cây trồng
cũng tạo được khả năng cố định đạm như vi khuẩn.
Hiện nay trên thị trường phân bón nước ta, phân vi sinh vật cố định đạm
được bán dưới các tên thương phẩm sau đây:
Phân nitragin chứa vi khuẩn nốt sần cây đậu tương.
Phân rhidafo chứa vi khuẩn nốt sần cây lạc.
Azotobacterin chứa vi khuẩn hút đạm tự do.
Azozin chứa vi khuẩn hút đạm từ không khí sống trong ruộng lúa. Loại
phân này có thể trộn với hạt giống lúa.
Vi sinh vật hoà tan lân. Cây chỉ có thể hút được lân từ đất dưới dạng
hoà tan trong dung dịch đất. Vì vậy, cây chỉ có thể hút được lân ở dạng dễ tiêu
trong đất. Lân ở dạng khó tan trong đất cây không hút được. Vì vậy, có nhiều
loại đất như đất đỏ bazan, đất đen, v.v.. hàm lượng lân trong đất khá cao, nhưng
cây không hút được vì lân ở dưới dạng khó hoà tan.
Trong đất thường tồn tại một nhóm vi sinh vật có khả năng hoà tan lân.
Nhóm vi sinh vật này được các nhà khoa học đặt tên cho là nhóm HTL (hoà tan
lân, các nước nói tiếng Anh đặt tên cho nhóm này là PSM – phosphate
solubilizing microorganisms).
Nhóm hoà tan lân bao gồm: Aspergillus niger, một số loài thuộc các chi
vi khuẩn Pseudomonas, Bacillus, Micrococens. Nhóm vi sinh vật này dễ dàng
nuôi cấy trên môi trường nhân tạo. Nhiều nơi người ta đã đưa trộn sinh khối
hoặc bào tử các loại vi sinh vật hoà tan lân sau khi nuôi cấy và nhân lên trong
phòng thí nghiệm, với bột phosphorit hoặc apatit rồi bón cho cây. Sử dụng các
chế phẩm vi sinh vật HTL đem lại hiệu quả cao ở những vùng đất cây bị thiếu
lân.
Một số loài vi sinh vật sống cộng sinh trên rễ cây có khả năng hút lân để
cung cấp cho cây. Trong số này, đáng kể là loài VA mycorrhiza. Loài này có
thể hoà tan phosphat sắt trong đất để cung cấp lân cho cây. Ngoài ra loài này
còn có khả năng huy động các nguyên tố Cu, Zn, Fe cho cây trồng. Nhiều
nơi người ta sử dụng VA mycorrhiza đã làm tăng năng suất cam, chanh, táo, cà
phê Nuôi cấy VA mycorrhiza trên môi trường nhân tạo rất khó. Vì vậy hiện
nay các chế phẩm có chưa VA mycorrhiza chỉ có bán rất hạn chế trên thị
trường phân bón Mỹ.
Những năm gần đây, trên thị trường phân bón ở một số nước có bán chế
phẩm Phospho – bacterin trong có chứa vi khuẩn giải phóng lân dễ tiêu từ các
chất hữu cơ.
Vi sinh vật kích thích tăng trưởng cây. Gồm một nhóm nhiều loài vi
sinh vật khác nhau, trong đó có vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn, v.v.. Nhóm này được
các nhà khoa học phân lập ra từ tập đoàn vi sinh vật đất.
Người ta sử dụng những chế phẩm gồm tập đoàn vi sinh vật được chọn
lọc để phun lên cây hoặc bón vào đất làm cho cây sinh trưởng và phát triển tốt,
ít sâu bệnh, tăng năng suất. Chế phẩm này còn làm tăng khả năng nảy mầm của
hạt, tăng trọng lượng hạt, thúc đẩy bộ rễ cây phát triển mạnh. Như vậy, chế
phẩm này có tác động tương đối tổng hợp lên cây trồng.
Để sản xuất chế phẩm vi sinh vật kích thích tăng trưởng của cây, người
ta sử dụng công nghệ lên men vi sinh vật. Ở các nước phát triển người ta sử
dụng các thiết bị lên men tự động, công suất lớn. Ở nước ta, đã dùng kỹ thuật
lên men trên môi trường bán rắn để sản xuất chế phẩm này, bước đầu cho kết
quả khá tốt.
Những năm gần đây ở nước ta đang tiến hành khảo nghiệm chế phẩm
EM của giáo sư người Nhật Teruo Higa. Chế phẩm này được đặt tên là vi sinh
vật hữu hiệu (Effective microorganisms – EM). Đây là chế phẩm trộn lẫn một
nhóm các loài vi sinh vật có ích trong đó có vi khuẩn axitlactic, một số nấm
men, một số xạ khuẩn, vi khuẩn quang hợp, v.v.. Tại hội nghị đánh giá kết quả
sử dụng EM tại Thái Lan tháng 11/1989, các nhà khoa học đã đánh giá tác
dụng tốt của EM như sau:
- Cải tạo lý hoá tính và đặc tính sinh học của đất.
- Làm giảm mầm mống sâu bệnh trong đất.
- Tăng hiệu quả của phân bón hữu cơ.
- Cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao, phẩm chất
nông sản tốt.
- Hạn chế sâu bệnh hại cây trồng.
- Góp phần làm sạch môi trường.
Chế phẩm EM còn được sử dụng trong chăn nuôi. Cho gia súc ăn, EM
làm tăng hệ vi sinh vật trong đường ruột, làm tăng sức khoẻ, giảm mùi hôi của
phân.
EM còn được dùng để làm sạch môi trường nước nuôi thuỷ sản.
Một số điểm cần chú ý khi sử dụng phân vi sinh vật:
Phân vi sinh vật sản xuất ở nước ta thường có dạng bột màu nâu, đen, vì
phần lớn các nơi sản xuất đã dùng than bùn làm chất độn, chất mang vi khuẩn.
Phân vi sinh vật sản xuất trong nước thường được sử dụng bằng cách
trộn với các hạt giống đã được vảy nước để ẩm hạt trước khi gieo 10 – 20 phút.
Nồng độ sử dụng là 100 kg hạt giống trộn với 1 kg phân vi sinh vật.
Các chế phẩm vi sinh vật sản xuất trong nước thường không cất giữ được
lâu. Thường sau từ 1 đến 6 tháng hoạt tính của các vi sinh vật trong chế phẩm
giảm mạnh. Vì vậy, khi sử dụng cần xem kỹ ngày sản xuất và thời gian sử dụng
được ghi trên bao bì.
Chế phẩm vi sinh vật là một vật liệu sống, vì vậy nếu cất giữ trong chuối
kiện nhiệt độ cao hơn 30oC hoặc ở nơi có ánh nắng trực tiếp chiếu vào, thì một
số vi sinh vật bị chết. Do đó hiệu quả của chế phẩm bị giảm sút. Cần cất giữ
phân vi sinh vật ở nơi mát và không bị ánh nắng chiếu vào.
Phân vi sinh vật thường chỉ phát huy tác dụng trong những chuối kiện
đất đai và khí hậu thích hợp. Thường chúng phát huy tốt ở các chân đất cao, đối
với các loại cây trồng cạn.
Các loại phân hữu cơ khác:
Có nhiều dạng chất hữu cơ, nhiều hỗn hợp các chất hữu cơ khác nhau,
nhiều hỗn hợp chất hữu cơ và các chất vô cơ được sử dụng làm phân bón cho
cây trồng.
Dưới đây xin nêu một số loại phân thường gặp trong sản xuất ở nước ta:
* Phân than bùn:
Than bùn được tạo thành từ xác các loài thực vật khác nhau. Xác thực
vật được tích tụ lại, được đất vùi lấp và chịu tác động của chuối kiện ngập nước
trong nhiều năm. Với chuối kiện phân huỷ yếm khí các xác thực vật được
chuyển thành than bùn.
Trong than bùn có hàm lượng chất vô cơ là 18 – 24%, phần còn lại là
các chất hữu cơ. Theo số liệu chuối tra của các nhà khoa học, trên thế giới trữ
lượng than bùn có khoảng 300 tỷ tấn, chiếm 1.5% diện tích bề mặt quả đất.
Than bùn được sử dụng trong nhiều ngành kinh tế khác nhau. Trong nông
nghiệp than bùn được sử dụng để làm phân bón và tăng chất hữu cơ cho đất.
Than bùn cho phản ứng chua. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong
than bùn thay đổi tuỳ thuộc vào thành phần các loài thực vật và quá trình phân
huỷ các chất hữu cơ. Số liệu phân tích than bùn ở một số địa điểm có than bùn
miền Đông Nam Bộ thu được như sau:
Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong than bùn ở miền Đông Nam Bộ
Đơn vị %
% chất dinh
dưỡng
Địa điểm lấy than bùn
Tây Ninh Củ Chi Mộc Hoá Duyên Hải
N 0,38 0,09 0,16 – 0,91 0,64
P2O5 0,03 0,1 – 0,3 0,16 0,11
K2O 0,37 0,1 – 0,5 0,31 0,42
pH 3,4 3,5 3,2 2,6
Số liệu của Hồ Thìn, Võ Đình Ngô – Trung tâm địa học, Phân viện khoa học
Việt Nam, TP Hồ Chí Minh.
Than bùn có hợp chất bitumic rất khó phân giải. Nếu bón trực tiếp cho
cây không những không có tác dụng tốt mà còn làm giảm năng suất cây trồng.
Vì vậy, than bùn muốn dùng làm phân bón phải khử hết bitumic.
Trong than bùn có axit humic, có tác dụng kích thích tăng trưởng của
cây. Hàm lượng đạm tổng số trong than bùn cao hơn trong phân chuồng gấp 2
– 7 lần, nhưng chủ yếu ở dưới dạng hữu cơ. Các chất đạm này cần được phân
huỷ thành đạm vô cơ cây mới sử dụng được.
Để bón cho cây, người ta không sử dụng than bùn để bón trực tiếp.
Thường than bùn được ủ với phân chuồng, phân rác, phân bắc, nước giải, sau
đó mới đem bón cho cây. Trong quá trình ủ, hoạt động của các loài vi sinh làm
phân huỷ các chất có hại và khoáng hoá các chất hữu cơ tạo thành chất dinh
dưỡng cho cây.
Chế biến than bùn thành các dạng phân bón khác nhau được thực hiện
trong các xưởng. Thông thường quá trình chế biến thông qua các công đoạn sau
đây:
Dùng tác động của nhiệt để khử bitumic trong than bùn. Có thể phơi
nắng một thời gian để Ôxy hoá bitumic. Có thể hun nóng than bùn ở nhiệt độ
70oC.
Dùng vi sinh vật phân giải than bùn. Sau đó trộn với phân hoá học
NPK, phân vi lượng, chất kích thích sinh trưởng, tạo thành loại phân hỗn hợp
giàu chất dinh dưỡng.
Hiện nay, ở nước ta có nhiều xưởng sản xuất nhiều loại phân hỗn hợp
trên cơ sở than bùn. Trên thị trường có các loại phân hỗn hợp với các tên
thương phẩm sau đây: Biomix (Củ Chi), Biomix (Kiên Giang), Biomix (Plây
Cu), Biofer (Bình Dương), Komix (Thiên Sinh), Komix RS (La Ngà),
Compomix (Bình Điền II), phân lân hữu cơ sinh học sông Gianh và nhiều loại
phân lân hữu cơ sinh học ở nhiều tỉnh phía Bắc.
* Phân tro, phân dơi:
Tro các loại được sử dụng làm phân bón rất có hiệu quả ở những loại
đất thiếu kali hoặc trong trường hợp bón quá nhiều phân đạm.
Trong tro có 1 – 30% K2O và 0.6 – 19% P2O5. Tro có thể dùng bón trực
tiếp cho cây hoặc dùng làm chất độn, chất trộn với phân chuồng, phân bắc,
nước tiểu
Kali trong tro dễ hoà tan. Trong tro còn có silic, lân, magiê, vi lượng
với hàm lượng tương đối cao. Tro có tính kiềm nên phát huy tác dụng tốt trên
các loại đất chua.
Phân dơi có hàm lượng lân rất cao. Nhiều gia đình nông dân đã vào các
hang động trong núi đá, thu gom phân dơi về bón ruộng, bón cho cây trồng và
đã thu được kết quả tốt. Nhiều hộ nông dân đã nuôi dơi để lấy phân bón ruộng.
Bài đọc thêm số 2
Cây chuối (Musa sapientum L)
Cây chuối có tên khoa học là Musa sapientum L., thuộc họ Musaceae.
Chuối là loại cây ăn quả nhiệt đới, ngắn ngày, dễ trồng và cho sản lượng khá
cao, trung bình có thể đạt năng suất 20-30 tấn/ha. Hiện nay, trên thế giới, nước
đạt năng suất chuối cao nhất là Goatemala 100 tấn/ha. Chuối có giá trị kinh tế
khá lớn và là mặt hàng xuất khẩu của nhiều nước.
Ở nước ta, khí hậu bốn mùa đều phù hợp cho chuối phát triển, từ Bắc
đến Nam, đồng bằng cũng như miền núi, ở đâu và mùa nào cũng có chuối.
Chuối đối với người Việt Nam là rau, là quả, là lương thực, thực phẩm. Sản
lượng chuối ở ta hàng năm cũng khá, ngoài việc tiêu thụ nội địa, chúng ta còn
xuất khẩu một lượng khá lớn. Tuy vậy, so với nhiều nước xuất khẩu chuối thì
năng suất trồng chuối nước ta còn thấp. Vì vậy, việc giúp bà con nông dân nắm
được những kinh nghiệm trong kỹ thuật trồng chuối, nhằm nâng cao năng suất
là hết sức cần thiết.
1. Điều kiện sinh thái của cây chuối
- Nhu cầu về nhiệt độ: Chuối sinh trưởng và phát triển thuận lợi trong
phạm vi 25-350C. Khi nhiệt độ giảm đến 100C thì quả chuối nhỏ, phẩm chất
kém, sinh trưởng chậm. Chuối sợ rét và sương muối, khi gặp sương muối kéo
dài lá chuối sẽ xám lại và héo khô. Như vậy, ở nước ta, nhất là các tỉnh miền
Nam, Nam Trung bộ, bình quân nhiệt độ hàng năm lớn hơn 240C, nên có lượng
nhiệt rất tốt cho chuối phát triển.
- Nhu cầu về nước: Hàm lượng nước trong các bộ phận cây chuối rất
cao, trong thân già 92,4%, trong rễ 96%, trong lá 82,6% và trong quả 96%. Độ
bốc hơi của lá rất lớn, dưới ánh nắng mặt trời, sức tiêu hao nước của chuối từ
40-50mg/dm2/phút. Với giống chuối tiêu lùn, cần từ 15-20 lít nước/ngày tuỳ
theo trời râm hay trời nắng. Chú ý vào mùa đông ở nước ta thường khô hanh, ít
mưa nên cần có biện pháp tưới ẩm để cung cấp đủ nước cho chuối.
- Nhu cầu về ánh sáng: Chuối có khả năng thích ứng trong phạm vi
cường độ ánh sáng tương đối rộng. Cho nên lượng ánh sáng ở điều kiện nước ta
cũng cho phép cây chuối sinh trưởng và phát triển tốt.
* Nên trồng chuối từ loại chồi nào
Hình thức nhân giống chuối chủ yếu là nhân giống vô tính. Người ta
thường dùng loại chồi con để trồng. Chồi con được hình thành từ những mầm
ngủ mọc trên thân ngầm của chuối, thường có 2 loại chồi con: chồi con đuôi
chiên và chồi con lá rộng. Theo nhiều kinh nghiệm, loại chồi con đuôi chiên
được sử dụng trồng tốt nhất. Nó được sinh ra khoảng tháng 4 đến tháng 6.
Trong điều kiện đầy đủ ánh sáng, nhiệt độ thích hợp, loại chồi non này sinh ra
rất nhanh, tốc độ sinh trưởng rất mạnh. Chồi này rất sung sức, khi trồng mau
bén rễ, tốc độ hồi sinh nhanh, sinh trưởng mạnh và mau ra buồng, sản lượng
cao.
Ngoài chồi con, ở một số nơi đã chọn củ chuối (thân ngầm) để nhân
giống, ở nước ta chưa áp dụng nhiều nhưng ở Trung Quốc, các nước châu Phi,
châu Mỹ đã áp dụng nhiều phương pháp trồng bằng củ chuối. Theo họ, phương
pháp này có lợi ở những mặt: dễ vận chuyển, con giống mọc ra từ củ tương đối
đồng đều nên khi trồng dễ chăm sóc và thu hoạch, hệ số nhân giống cũng tương
đối cao vì khi ta bổ một củ ra đem trồng có thể đạt được từ 4 đến 6 cây con.
2. Yêu cầu về loại đất trồng chuối
Chuối là loại cây dễ trồng, yêu cầu về đất không quá nghiêm khắc. Tốt
nhất đối với chuối là đất thịt nhẹ, đất pha cát, đất phù sa (tốt hơn cả), đất thoáng
có cấu tượng tốt và độ xốp cao. Về hóa tính đất, chuối rất cần các chất khoáng
trong đất như N, P, K, Ca, Mg, trong đó hai yếu tố chính là N và K. Kết quả
phân tích hàm lượng các chất khoáng trong giống chuối tiêu lùn cho thấy:
Chất khoáng Hàm lượng (kg/tấn quả tươi)
N 1,0 - 2,0
P 0,18 - 0,22
K 4,3 - 4,9
Ca 0,09 - 0,21
Mg 0,11 - 0,32
Chuối mọc bình thường trong đất có pH từ 4,5 - 8, tốt nhất trong khoảng
6 - 7,5. Trường hợp đất quá chua hoặc quá kiềm có thể gây ra hiện tượng thiếu
vi lượng trong đất, ảnh hưởng đến sinh trưởng của chuối.
3. Mật độ trồng chuối thích hợp
Mật độ trồng dày hay thưa phụ thuộc vào giống chuối. Đối với giống
càng thấp cây, tán lá hẹp như chuối tiêu lùn, chuối ngự có thể trồng dày, còn
các loại như chuối tiêu vừa, chuối tiêu cao, chuối lá, chuối gòn,lại trồng thưa
hơn. Ở các vườn chuối nước ta, mật độ trồng phổ biến khoảng trên dưới 1.000
cây/ha (với chuối tiêu vừa và lùn), khoảng cách trồng: 3m x 3m (1100 cây/ha)
hoặc 3m x 2,5m (1.300 cây/ha). Tuy nhiên, so với các nước khác, mật độ trồng
nước ta quá thưa nên năng suất thấp hơn nhiều. Theo nhiều kinh nghiệm cho
biết, ở nước ta đối với giống chuối tiêu lùn, có thể trồng 20.00-2.500 cây/ha.
Tuy nhiên, khi trồng mật độ dày cần phải chú ý: Chọn cây con thật đồng đều
nhằm tránh hiện tượng lấn át, tranh giành dinh dưỡng và ánh sáng giữa các cây;
chú ý bón phân đúng mức và phòng tránh kịp thời bệnh đốm lá cho cây; trồng
dày hợp lý có tác dụng tốt cho vườn chuối, vườn sớm được che bóng, ít cỏ dại,
tạo điều kiện nóng ẩm phù hợp với cây chuối và tốt hơn cả là tăng năng suất
chuối.
4. Mùa vụ trồng chuối phù hợp
Đối với khí hậu nước ta, chuối có thể trồng quanh năm đều sống được, vì
vậy về mặt thời vụ không yêu cầu nghiêm ngặt lắm. Tuy nhiên, nếu để đạt đến
năng suất cao và phẩm chất chuối tốt, bà con cũng cần chú ý đến thời vụ.
“Giêng trúc lục tiêu” tức là kinh nghiệm về mùa vụ trồng tre và chuối hợp lý,
tức tháng giêng (ÂL) trồng tre, tháng sáu (ÂL) trồng chuối. Đối với các giống
chuối gòn, chuối lá mật, chuối ngự, có thể trồng được vụ xuân (tháng 2-3
ÂL), nhưng với chuối tiêu thì phải trồng vụ thu (tháng 6-7 ÂL) và cây sẽ ra hoa
vào tháng 6-8 năm sau, đến tháng 9-11 thu hoạch, lúc này năng suất, phẩm chất
chuối tiêu rất tốt. Vì vậy mà trong dân gian cũng đã có kinh nghiệm ăn chuối:
vào mùa nóng thì nên ăn chuối gòn, chuối lá, còn vào mùa rét thì ăn chuối tiêu
ngon hơn.
5. Bón phân, tưới nước cho chuối
Đạm (N), Lân (P), Kali (K) đều rất cần thiết bón cho chuối. N ảnh hưởng
đến năng suất chuối, K liên quan đến sự phát triển chiều cao và P có tác dụng
tạo phẩm chất quả tốt, chống sâu bệnh. Lượng bón phân tuỳ thuộc vào sản
lượng thu hoạch. Đối với nước ta, qua các thí nghiệm cho thấy liều lượng N, P,
K thích hợp bón cho 1 cây chuối tiêu trong 1 năm ở đất phù sa ven sông là:
100-200g N nguyên chất, 20-40g P nguyên chất, 250-300g K. Hàm lượng chất
hữu cơ trong đất trồng chuối nhất thiết phải đạt 3-4% là tốt, nếu thấp hơn phải
bón phân hữu cơ. Đối với chuối thường bón 30-50kg phân chuồng cho một gốc
một năm. Có thể phủ cỏ, vỏ cà phê, mùn cưa, lá thông,một lớp dày 30-40cm
quanh gốc chuối để dần thành mùn và giữ ẩm cho đất cũng rất tốt. Hoặc có thể
trồng cây phân xanh để tạo chất hữu cơ cho đất. Nên nhớ vào các tháng 7-8-10
sau khi trồng là giai đoạn bón thúc quan trọng, giúp nâng cao năng suất và
phẩm chất chuối.
Chuối có nhu cầu nước cao, chịu hạn kém, cho nên cần lưu ý tưới nước
đủ cho chuối. Một nghiên cứu đã cho biết một cây chuối có diện tích bộ lá
13,5m2 cần 50-70kg nước để thoát nước trong một phút.
Kỹ thuật trồng và thâm canh chuối Laba
Trong nhiều năm trở lại đây, chuối Laba được coi là mặt hàng đặc
sản của Đà Lạt - Lâm Đồng được nhiều người tiêu dùng trong và ngoài
tỉnh ưa chuộng. Chuối có độ dẻo, mùi thơm và có vị ngọt đặc trưng.
Chúng tôi cung cấp quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc chuối để bà
con tham khảo:
1. Đất trồng chuối
- Chuối Laba được trồng trên nhiều chân đất khác nhau, từ đất đỏ
bazan, đất xám, đất phù sa ven sông suối nhưng tốt nhất là đất phải
tơi xốp, nhiều mùn, giữ nước tốt, nhất là đất phù sa, đất bùn ao phơi
ảiđất có độ pH từ 4.5 -8, thích hợp nhất là pH 6 – 7.5.
- Chuối LaBa chịu úng và chịu hạn kém, do đó đất trồng phải có
độ cao so với mực nước ngầm tối thiểu 0,6m, thoát nước tốt.
1.1 Chuẩn bị đất:
Dọn sạch đất, vệ sinh xung quanh sau đó đào hố trồng, đào hố
kích thước 40 x 40 x 40 cm hoặc 60 x 60 x 60 cm sau đó lấy lớp đất mặt
trộn với 5 - 10 kg phân chuồng hoai + 300gr P2O5 + vôi bón vào hố
xong lấp lại. Trước khi trồng 5- 7 ngày bón lót phân hữu cơ vi sinh +
thuốc trừ sâu mocap hoặc Basudine hạt để trừ sâu, sau đó trộn đều đất
trước khi trồng.
1.2 Chuẩn bị cây con giống: Có 3 loại
Cây con giống từ nuôi cấy mô, cây con giống tỉa từ cây mẹ, cây
con giống nhân bằng củ (ít trồng), nhưng tốt nhất nên chọn cây con
giống từ nuôi cấy mô, cây giống từ nuôi cấy mô có ưu điểm là sinh
trưởng mạnh, độ đồng đều cao và sạch bệnh. Chọn cây giống trồng đạt
chiều cao 20cm trở lên và có từ 6-7 lá. Nếu chọn cây con giống bứng từ
cây mẹ thì chọn cây mập khỏe, cây có hình lưỡi mác, không bị sâu
bệnh, cao 0,8-1m, cắt sạch rễ và 2/3 lá trước khi trồng. Nếu cây con quá
lớn thì mau cho thu hoạch trái nhưng năng suất vụ đầu thấp.
Giống chuối là yếu tố quan trọng, nếu không chọn đúng giống sẽ
ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng quả chuối khi bán. Vườn chuối
mẹ không được nhiễm các loại bệnh như: Bệnh chùn đọt (Bunchy Top),
bệnh khảm lá (CMV), bệnh đốm cháy lá (cháy lá Sigatoka vàng-nâu), tỷ
lệ cây chuối bị nhiễm sùng đục củ, sùng đục thân chuối tỷ lệ thấp, tuyến
trùng hại rễ.
2. Khoảng cách trồng
Thay đổi tùy theo địa hình đất, đất tốt hoặc xấu. Thông thường
nông dân trồng khoảng cách 3m x 3m hoặc 3m x 4m. Trồng chuối
nên trồng theo hướng Đông – Tây để tận dụng tốt ánh sáng mặt trời,
trồng theo hình chữ nhật hoặc nanh sấu.
3. Thời vụ trồng
Chuối trồng được quanh năm, tốt nhất nên trồng khi đất đủ ẩm
hoặc vào đầu mùa mưa, cây sinh trưởng tốt cho tỉ lệ sống cao hoặc xác
định thời điểm trổ buồng, thu hoạch mà chọn thời gian trồng thích hợp
với điều kiện chủ động được nước tưới.
4. Cách trồng chuối
Dùng cuốc xới lại hố đào sau đó đặt bầu đất chuối cấy mô xuống
hố trồng, lưu ý mặt bầu đặt thấp hơn mặt hố từ 10 - 15cm, sau đó lấp
đất lại và nén chặt xung quanh gốc chuối (không nên nén quá chặt sẽ
làm dập con chuối). Nếu trời nắng quá có thể che tủ cây con trong tuần
lễ đầu.
Cần lưu ý là đặt mặt cắt của củ cây giống từ cây mẹ về một phía
để khi trổ buồng, buồng cũng hướng về một phía, tạo thuận lợi cho thu
hoạch. Nếu trồng trên sườn đồi thì đặt mặt cắt của củ cây giống hướng
xuống phía chân đồi để khi cây trổ buồng chuối sẽ ở phía trên. Và làm
như vậy để khi chuối có buồng, các buồng sẽ kéo cây vào phía trong
làm cây đỡ bị đổ.
5. Chăm sóc, bón phân, tưới nước và tỉa chồi
5.1 Tưới nước
Ở giai đoạn cây con tùy thời tiết, thời vụ trồng mà điều chỉnh
lượng nước tưới phù hợp, không nên để chuối quá ẩm hoặc quá khô.
Cây con chuối mới trồng 2-3 ngày tưới một lần, cây trưởng thành tưới 2
lần/tuần. Nên trồng cây chắn gió quanh vườn để hạn chế rách lá làm
giảm năng suất chuối.
Khi cây chuối trổ buồng rất cần nước nên cần chú ý tưới nước và
bón phân đầy đủ để quả chuối phát triển tốt. Vào mùa mưa (từ tháng 5-
11 dương lịch) chú ý thoát nước tốt cho vườn chuối để hạn chế ngập
úng.
5.2 Phân bón
Yêu cầu về dinh dưỡng của cây chuối lớn, đòi hỏi lượng phân bón
nhiều mới cho sản lượng cao. Đất phải có nhiều hữu cơ, hàm lượng mùn
trong đất cao.
5.2.1 Lượng bón
Theo các tài liệu nghiên cứu cho thấy để cho chuối sinh trưởng và
phát triển đạt năng suất cao trong 1 năm cần lượng phân bón như sau
(g/cây).
N P2O5 K2O CaO MgO
150,5 40,7 561 158 99
Phân tích 01 cây chuối đạt năng suất cao cho thấy: Lượng kali cao
gấp 3,6 -> 3,75 lần đạm, CaO cao nhưng hầu hết trên 75% tập trung vào
thân và lá chuối. Đây là nguyên nhân vì sao phải trồng chuối trên đất
tốt phì nhiêu nếu không phải bón phân hữu cơ, đầu tư chăm sóc và quản
lý tốt.
5.2.2 Phương pháp và thời kỳ bón phân
Cây chuối sinh trưởng và phát triển chia làm 3 giai đoạn:
-Thời kỳ đầu: Thời kỳ dinh dưỡng và sinh trưởng của cây con.
-Thời kỳ giữa: Thời kỳ phân hóa mầm hoa (giai đoạn quan trọng
hình thành buồng, trái).
-Thời kỳ cuối: Thời kỳ ra hoa và phát triển buồng, trái.
Sản lượng của cây chuối cao hay thấp quyết định trong thời kỳ
phân hóa mầm hoa, để có số lượng nải và quả cao thì phải chú ý chăm
sóc tốt thời kỳ đầu sinh trưởng và phát triển của cây chuối. Vì thời kỳ
này tác động rất mạnh đến thời kỳ phân hóa mầm hoa. Sau thời kỳ cây
chuối đã phân hóa mầm hoa thì bón phân không tác động mạnh đến
năng suất của cây.
+ Bón lót: Toàn bộ phân chuồng, phân lân, phân hữu cơ vi sinh
trước khi trồng, ở những vụ kế thì bón sau khi thu hoạch hay đầu mùa
mưa, lượng bón từ 0,3 – 0,5kg/hố.
+ Bón thúc: Trong 1 năm thông thường chia làm 3 lần bón:
- Lần 1: Sau trồng 1 tháng bón 30% lượng N, 30% lượng K2O
- Lần 2: Sau trồng 4,5 tháng bón 40% lượng N, 40% lượng K2O
- Lần 3: Sau trồng 7,5 tháng bón 30% lượng N, 30% lượng K2O.
Tuỳ vào độ màu mỡ của đất, khả năng cho sản lượng của cây mà
có lượng phân bón thích hợp cho từng gốc, ngoài ra còn căn cứ vào các
triệu chứng thiếu phân biểu hiện trên cây, lá mà cung cấp lượng phân
thích hợp.
Đối với chuối con trồng bằng mô
+ Bón thúc: Sau khi trồng chuối con từ 7-15 ngày, tiến hành bón
thúc kết hợp với phun xịt phân qua lá và thuốc phòng trừ sâu bệnh,
thuốc kích thích tăng trưởng để giúp cho chuối phát triển nhanh. Sau đó
trung bình từ 15 – 30 ngày bón 1 lần, bón 1kg phân NPK tổng hợp cho
30-50 gốc, bón phân theo hốc hoặc xới nhẹ quanh gốc theo tán cây và
cách gốc 10-20cm, sau đó tiến hành rải phân và lấp đất lại.
Để thâm canh tốt cho các vụ sau cần bón thêm càng nhiều phân
chuồng, phân hữu cơ càng tốt. Một số nơi nông dân tận dụng vỏ cà phê
tươi sau khi ủ hoai làm phân hữu cơ bỏ vào vườn trồng chuối rất hiệu
quả và giữ ẩm rất tốt.
Tỉa chồi:
Tỉa chồi phải được tiến hành thường xuyên (1 tháng/lần), dùng
dao cắt ngang thân sát mặt đất và hủy đỉnh sinh trưởng. Nên tiến hành
tỉa vào lúc trời nắng ráo, tránh để đọng nước xung quanh làm chồi con
bị thối lây sang cây mẹ.
Sau khi trồng 5 tháng có thể tiến hành tỉa chồi, nên chọn những
chồi con mập, khỏe mọc cách xa cây mẹ 20cm, mỗi bụi chuối chỉ nên
để 3 cây và có thời gian sinh trưởng cách nhau từ 3-4 tháng.
Việc đánh tỉa chồi con cây chuối để đem trồng có ảnh hưởng nhất
định đến năng suất buồng chuối. Nên đánh tỉa chồi con cây chuối khi
cây chuối mẹ đã trổ buồng và định hình quả, chỉ đánh tối đa ¼ vùng gốc
cây chuối mẹ sau đó tích cực chăm sóc, bón phân để mau phục hồi. Nếu
đánh tỉa chồi con khi cây mẹ chưa ra quả sẽ ảnh hưởng đến năng suất và
cây mẹ hay bị đổ ngã khi mưa gió.
Cắt hoa đực-che và chống quày
Ở những nơi có mật độ con Bù Lạch cao khi buồng chuối mới nhú
cần phun xịt thuốc trừ sâu kết hợp với các loại thuốc phòng bệnh như
Zinep xanh, Macozeb, Kocide để diệt trừ bù lạch cắn phá và nấm quả
chuối.
Tiến hành cắt bỏ những bẹ lá chuối cạ vào buồng để buồng chuối
thông thoáng không bị trầy xước.
Sau khi ở cuối buồng chuối xuất hiện nải toàn hoa đực thì tiến
hành cắt bắp để tập trung dinh dưỡng cho các nải chuối.
Dùng túi polyetylen màu xanh dương có đục lỗ để bao quày, mục
đích giữ cho màu sắc vỏ trái được đẹp hơn, hạn chế bù lạch chích hút
trái non và giúp tăng năng suất quày chuối.
Khi buồng chuối lớn nên dùng cây chống quày tránh đổ ngã.
Bón phân c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_trong_va_cham_soc_chuoi.pdf