1. Khái niệm triết học và đối tƣợng nghiên cứu của triết học
a) Khái niệm triết học.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thức VI trước
công nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ
và Hy Lạp cổ đại.
Triết học, theo gốc từ chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng,
là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật.
Theo người Ấn Độ, triết học là darshana. Điều đó có nghĩa là sự
chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người
đến với lẽ p
457 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 520 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Triết học - Tô Thành Lê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của con
người. Từ bản năng con người chuyển sang hoạt động tự giác - tự ý thức về
hoạt động của mình. Khi có ý thức tham gia vào hoạt động, mỗi sự tác
động của con người vào tự nhiên đều mang tính mục đích. Những hoạt
động đó không chỉ thoả mãn nhu cầu trực tiếp, thiết thực của con người mà
còn bảo đảm phát triển nói chung. Khai thác tự nhiên, chinh phục tự nhiên,
bảo vệ tự nhiên, tái tạo tự nhiên là quá trình đan xen, ảnh hưởng, chi phối,
hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động của con người. Quá trình đó giúp con
người biết chung sống với tự nhiên. Trong lịch sử nhận thức, không phải
lúc nào cũng được hiểu một cách nghiêm túc chức năng của thực tiễn,
chính vì vậy, Ph. Ăngghen nhận xét rằng: “Từ trước tới nay, khoa học tự
nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động
con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy, một mặt chỉ biết có tự nhiên,
mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên,
chứ không phải một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ
sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người
đã phát triển song song với việc người ta học cải biến tự nhiên”(1).
Cải tạo tự nhiên đồng thời cải tạo chính bản thân chủ thể hoạt động
là chức năng của hoạt động thực tiễn. Bằng hoạt động của mình, con người
vừa khai thác tự nhiên vừa nhận thức tự nhiên để cùng chung sống và tái
tạo tự nhiên theo nguyên tắc cân bằng, hài hoà giữa tự nhiên, xã hội và con
người.
2. Phạm trù lý luận
“Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con
người, là toàn bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc
(1)
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, tập 20, tr. 720.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
318
lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgíc của các khái niệm cái
lôgíc khách quan của các sự vật”(1).
Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế
giới khách quan. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực
tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại, trong đó, thực tiễn giữ vai trò quyết
định.
Lý luận được hình thành trên cơ sở của quá trình nhận thức, nhưng
không phải là quá trình nhận thức trực tiếp đối tượng mà nó mang tính gián
tiếp. Tức là quá trình hình thành lý luận chỉ thông qua quá trình trừu tượng
hoá, khái quát hoá. Quá trình đó diễn ra trên cơ sở kết quả của tri thức khoa
học.
Để hình thành tri thức khoa học, con người phải thông qua quá trình
nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức kinh nhiệm là quá trình quan sát sự lặp
đi, lặp lại diễn biến của các sự, vật hiện tượng để vận dụng vào hoạt động
khi các yếu tố và điều kiện chưa thay đổi hay trong những quan hệ đơn
giản. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức
kinh nhiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh
nhiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu
được thông qua quá trình quan sát trực quan quá trình sinh hoạt và lao động
hàng ngày của con người. Nó giúp con người giải quyết nhanh một số vấn
đề cụ thể, đơn giản trong quá trình tác động trực tiếp đối tượng. Tri thức
kinh nghiệm khoa học là kết quả của quá trình thực nghiệm khoa học. Nó
đòi hỏi chủ thể phải tích luỹ một lượng tri thức cơ bản trong hoạt động sản
xuất cũng như hoạt động khoa học mới có thể hình thành tri thức kinh
nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học giúp các nhà khoa học
hoặc những hoạt động khoa học hợp lí hoá thí nghiệm, thực nghiệm, thúc
đẩy nhanh quá trình hình thành tri thức khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy
là thành tố của tri thức nhưng ở trình độ thấp. Thế nhưng, nó là cơ sở để
hình thành tri thức khoa học.
Nhận thức khoa học là quá trình phân tích cấu trúc, chức năng, tính
chất, mối quan hệ giữa các yếu tố trong những điều kiện cụ thể để khái quát
(1)
Từ điển triết học, Nxb. Tiến Bộ, Matxcơva 1986, tr. 342-243.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
319
thành tri thức khoa học. Nhận thức khoa học bao gồm hai giai đoạn: giai
đoạn nhận thức cảm tính và giai đoạn nhận thức lí tính. Giai đoạn nhận
thức cảm tính có các hình thức: cảm giác, tri gác và biểu tượng. Ở giai
đoạn này tri thức mang tính hiện tượng, bề ngoài, chưa đi sâu vào bản chất
của sự vật, hiện tượng nhưng là cơ sở cho giai đoạn nhận thức cao hơn.
Giai đoạn nhận thức lí tính là giai đoạn tiếp theo của quá trình nhận thức.
Giai đoạn này có các hình thức: khái niệm, phán đoán, suy lí. Nhờ các thao
tác này mà quá trình nhận thức tách khỏi đối tượng nhưng vẫn bảo đảm
tính chân lí của tri thức. Kết quả của quá trình nhận thức khoa học là tri
thức khoa học. Tri thức khoa học bao gồm tri thức khoa học tự nhiên, tri
thức khoa học xã hội. Tri thức khoa học được biểu thị bằng các quy luật.
Tri thức khoa học phản ánh mối quan hệ giữa các yếu tố trong những điều
kiện nhất định để khái quát khuynh hướng tồn tại, vận động, phát triển và
biến đổi cơ bản của các sự vật, hiện tượng, của các trạng thái vật chất. Tri
thức khoa học cung cấp cho con người phương pháp hoạt động nhận thức
và cải tạo hiện thực khách quan một cách khoa học. Về bản chất, lý luận
cũng là tri thức khoa học. Nhận thức lý luận là quá trình trừu tượng hoá,
khái quát hoá cái hiện tượng, cái bề ngoài của các sự vật, hiện tượng, của
thực tiễn để hình thành những nguyên lí, những quy luật mang tính
phương pháp. Nhận thức lý luận mang tính gián tiếp; tính trừu tượng; tính
khái quát; tri thức sâu sắc hơn, hệ thống hơn.
Tri thức lý luận định hướng hình thành tri thức khoa học, tri thức
kinh nghiệm; tuyển chọn kinh nghiệm hợp lí vận dụng vào hoạt động thực
tiễn; khẳng định giá trị của kinh nhiệm để khái quát thành cái phổ biến.
Lý luận có những cấp độ khác nhau tuỳ phạm vi phản ánh và vai trò
phương pháp luận của nó để có thể phân chia thành các cấp độ. Sự phân
chia này mang tính tương đối.
Theo lịch sử hình thành của nó, lý luận cũng có thể được quan niệm
là lí thuyết để phân biệt với thực hành. Ở cấp độ này, lý luận thuần tuý ghi
chép lại kết quả thực hành; do đó, lý luận mang nặng tri thức kinh nghiệm.
Lý luận ngành là lý luận được khái quát từ những quy luật hình
thành và phát triển của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng
như phương pháp luận cho hoạt động của ngành đó. Như lý luận toán học,
lý luận sinh học, v.v..
Lý luận triết học là thông qua tri thức khoa học về hiện thực khách
quan để hình thành lý luận chung nhất - tri thức triết học làm cơ sở cho thế
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
320
giới quan và phương pháp của cá nhân hoặc cộng đồng. Nhưng không phải
mọi hệ thống triết học đều đạt đến tri thức lý luận hay tri thức chung nhất.
Những hệ thống triết học phản ánh sai hiện thực khách quan thì không thể
đồng nhất tri thức triết học đó với tri thức lý luận chung nhất. Lý luận
chung nhất chỉ đạt được trong phép biện chứng duy vật, trong triết học duy
vật biện chứng.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng
cơ bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương
pháp cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng
những quy luật chung hay chung nhất. Nó lược bỏ những yếu tố ngẫu nhiên
hoặc cái riêng để hình thành những quy luật chung về quá trình tồn tại, vận
động, phát triển và biến đổi của hiện thực khách quan. Tri thức kinh
nghiệm, tri thức khoa học cũng như tri thức lý luận đều phản ánh hiện thực
khách quan nhưng ở những trình độ khác nhau. Tri thức lý luận phản ánh
hiện thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức và cải tạo hiện
thực khách quan.
Chức năng phương pháp luận của lý luận (hay tri thức lý luận) cho
quá trình hoạt động thực tiễn ở trình độ chung hay chung nhất. Đó vừa là
chức năng phương pháp luận cho hoạt động nhận thức, vừa là chức năng
cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan. Có phương pháp luận chung
nhất, phương pháp luận chung và phương pháp luận chuyên ngành. Mỗi
cấp độ phương pháp luận có vai trò và hiệu quả khác nhau trong quá trình
hoạt động. Mỗi lĩnh vực cụ thể đều có phương pháp luận cụ thể. Phương
pháp luận cụ thể chỉ đúng khi không đối lập với phương pháp luận chung
hay chung nhất.
II - N ỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC T ỐNG N ẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ T ỰC TIỄN
1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của
lý luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn.
Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, lý luận là hệ
thống tri thức được khái quát từ các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và
quy luật tư duy. Nhưng những tri thức được khái quát thành lý luận là kết
quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua hoạt động
thực tiễn, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
321
các trạng thái vật chất để hình thành tri thức về đối tượng. Quá trình hoạt
động thực tiễn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được
khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh những
vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua
đó, tri thức về đối tượng được bổ sung, mở rộng. Chính vì vậy, V. I. Lênin
nói: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó,
trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của
nó, tự nó và vì nó”(1).
Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không
chỉ là nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các
mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Thông qua hoạt động
thực tiễn mà các cơ quan cảm giác được hoàn thiện hơn, tạo khả năng phản
ánh nhạy bén hơn, chính xác hơn, nhanh hơn; hoạt động thực tiễn còn tạo
ra những phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với đối
tượng.
Lý luận làm phương pháp của quá trình hoạt động đã đưa lại hiệu
quả hơn, kích thích quá trình nhận thức hình thành lý luận. Nhờ vậy mà con
người nhận thức bản chất của thế giới ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những
tri thức khái quát về thế giới để làm thoả mãn nhu cầu hiểu biết của con
người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động
của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thoả
mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội.
Tự thân lý luận không thể tạo nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu
của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con
người. Đó thực chất là mục đích của lý luận. Lý luận phải đáp ứng năng lực
hoạt động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận. Tính chân lí của lý luận chính là
sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan, với thực tiễn; là giá trị
của lý luận đối với hoạt động, sinh hoạt của con người. Do đó, mọi lý luận
phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì thế mà C. Mác nói:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt đến chân lí khách
quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề
(1)
V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva 1981, tập 29, tr. 227.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
322
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lí”(1).
Thông qua thực tiễn, những tri thức đạt đến chân lí sẽ được bổ sung vào
kho tàng tri thức nhân loại. Những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp
tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của các tri thức nhất thiết
phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Lý luận tuy được khái quát từ tri thức khoa học nhưng sự khái quát
đó có phù hợp hay không phải thông qua thực tiễn để chứng minh.
Vì sao thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận, V.I. Lênin giải thích điều
này như sau: "Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần
được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng lôgíc. Những
hình tượng này có tính vững chắc của một thiên kiến, có một tính chất công
lí, chính vì (và chỉ vì) sự lặp đi, lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy”(2).
Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí, nhưng không phải mọi thực
tiễn đều là tiêu chuẩn của chân kí. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lí của lý
luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn
là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hoá.
Đó là chu kì tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận
nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó chỉ những lý
luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lí.
Chính vì vậy, không phải bất kì thực tiễn nào cũng có thể là tiêu chuẩn của
lý luận.
Quá trình thăng trầm của chủ nghĩa xã hội thế giới cho chúng ta thấy
rõ điều đó. Sau khi giành được chính quyền, những người vô sản tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội với cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp
thông qua hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể. Tương ứng với hai
hình thức sở hữu đó là hai thành phần kinh tế: quốc doanh và tập thể. Thời
kì đầu, chủ nghĩa xã hội đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Từ đây, chúng
ta cho rằng, cơ chế đó, hai thành phần kinh tế đó và những lý luận ra đời
trên nền tảng ấy vừa khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, vừa
khẳng định lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn khoa học.
Khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội từ những năm 70 dẫn đến sụp đổ một
loạt nước xã hội chủ nghĩa vào đầu những năm 90 của thế kỉ XX chứng tỏ
(1)
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.10.
(2)
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1981, t.29, tr.234.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
323
thực tiễn của chủ nghĩa xã hội chưa bộc lộ hết, chưa phát triển toàn vẹn nên
lý luận chưa phản ánh đúng hiện thực khách quan.
Tuy xét đến cùng, thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lí, của lý
luận. Nhưng vì thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối, do đó
ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu chuẩn khác như tiêu
chuẩn lôgíc, tiêu chuẩn giá trị ... Song các tiêu chuẩn đó vẫn phải trên nền
tảng của thực tiễn. Chính vì vậy, chúng ta có thể nói khái quát, thực tiễn là
tiêu chuẩn của lý luận.
Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự
hình thành lý luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận
thức mà do nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú, đa dạng, luôn vận
động và biến đổi. Trong sự biến đổi bất tận đó, chúng đều có mối liên hệ,
thống nhất và ảnh hưởng lẫn nhau, đều có cái chung. Lý luận chính là khái
quát cái chung đó. Theo bản chất của nó, không phải hoạt động nào cũng
được bắt đầu bằng lý luận. Có những thực tiễn phải trải qua thời gian lâu
dài mới có thể khái quát bằng lý luận. Thực trạng đó có thể do thực tiễn
phức tạp, chưa bộc lộ bản chất của chúng; cũng có thể do con người chưa
đủ năng lực nắm bắt, phản ánh chúng; hoặc có thể do thực tiễn chưa đáp
ứng lợi ích của con người nên chưa hình thành lý luận. Có thể nói rằng, để
hình thành lý luận, trước hết, lý luận phải đáp ứng thực tiễn. Con người
nhận thức hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề con người quan
tâm. Năng lực của con người ngày càng được nâng cao chính nhờ khả năng
thông qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận. Trong sự vô
cùng, vô tận của hiện thực khách quan, con người không hề choáng ngợp
mà bằng mọi biện pháp để nhận thức theo định hướng mục đích. Thông qua
tính mục đích đó mà lý luận được hình thành. Loài người có khả năng trở
thành chủ thể nhận thức để phản ánh sự vô tận của hiện thực khách quan,
nhưng để đáp ứng hoạt động thực tiễn, con người tích luỹ lý luận, mà trước
hết là những lý luận phù hợp với nhu cầu hoạt động thực tiễn của con
người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp cho hoạt động cải tạo
hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt hiệu quả
cao. Lý luận, trước hết phải đáp ứng nhu cầu đó. Quan hệ trong quá trình
tồn tại giữa người với người, giữa người với tự nhiên đòi hỏi con người
phải có lý luận sâu sắc về chúng. Lý luận sáng tạo là trình độ lý luận cao
của lý luận. Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp cho
hoạt động trong đó có hoạt động sáng tạo tri thức, phát minh, sáng chế
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
324
những tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng tạo
của con người.
Mọi lý luận đều hữu ích đối với con người. Nhưng lý luận nào góp
phần giải quyết đúng đắn, phù hợp mục đích của con người thì được con
người quan tâm nhất. Do đó, lý luận phải đáp ứng nhu cầu phát triển của
thực tiễn.
2. Thực tiễn phải đƣợc chỉ đạo bởi lý luận; ngƣợc lại, lý luận
phải đƣợc vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong
thực tiễn.
C. Mác đã từng nói, người thợ xây không bao gì tinh xảo như con
ong xây tổ, nhưng người thợ xây hơn hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây
dựng một công trình, họ đã hình thành được hình tượng của công trình ấy
trong đầu họ. Tức là, hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Ban
đầu, hoạt động của con người chưa có lý luận làm phương pháp. Song, con
người phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thông qua đó,
con người khái quát thành lý luận. Từ đó, những hoạt động của con người
muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận. Tuy lý luận chưa thể đầy đủ,
nhưng quá trình hoạt động để cải tạo hiện thực khách quan cũng như bổ
sung lý luận đều phải biết vận dụng lý luận đã có cho quá trình hoạt động
của con người. Bản chất của lý luận vừa mang tính tri thức, vừa mang tính
phương pháp. Nghĩa là, lý luận vừa thoả mãn nhu cầu nhận thức, vừa thoả
mãn nhu cầu hoạt động của con người.
Lý luận là phương pháp của thực tiễn vì lý luận có khả năng định
hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý
luận còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của
thực tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xẩy ra, những hạn chế, những
thất bại có thể có trong quá trình hoạt động, Như vậy, lý luận không chỉ là
phương pháp để mang lại hiệu quả hoạt động, đáp ứng nhu cầu của con
người, mà còn là phương pháp để khắc phục những hạn chế và tăng năng
lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục
tiêu, lí tưởng, liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô
địch. Chính vì vậy, C. Mác đã cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên
không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có
thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực
lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”(1).
(1)
C. Mác và Ph. Ăngghen: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Lời nói đầu, Toàn tập,
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
325
Do lý luận là cái phản ánh nên hoạt động ban đầu của con người
chưa có lý luận làm phương pháp. Ngày nay, những lĩnh vực mới trong
hoạt động của con người cũng chưa có lý luận làm phương pháp. Hoạt
động sáng tạo không chỉ để phát minh tri thức mới mà còn góp phần bổ
sung, khái quát lý luận mới. Ngay trong những hoạt động đó, mặc dù chưa
có lý luận làm phương pháp nhưng con người vẫn dựa vào những tri thức,
những lý luận tiền đề làm phương pháp cho quá trình hình thành tri thức,
hình thành lý luận mới.
Tuy lý luận mang tính phương pháp, nhưng lý luận còn mang tính
lịch sử, cụ thể. Do đó khi vận dụng lý luận, chúng ta cần phân tích lý luận,
nhận thức thực tiễn để lý luận thực sự là phương pháp cho hoạt động của
con người. Nếu vận dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng
những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm
sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó
khăn của con người. Kết quả của tư duy không phụ thuộc vào tư duy mà
thuộc về thực tiễn. Vì hoạt động thực tiễn mà con người khái quát thành lý
luận. Tuy hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng nhưng không phải
không có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái quát dưới
hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ làm phương pháp cho
hoạt động thực tiễn mà còn định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định
hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các
mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Không những thế, lý luận còn định
hướng mô hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động
thực tiễn, trước hết, từ lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo những
mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn biến, các mối
quan hệ, lực lượng tiến hành và những phái sinh của nó trong quá trình phát
triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm
đạt kết quả cao hơn.
Lý luận tuy là lôgíc của thực tiễn, song, lý luận có thể lạc hậu so với
thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát
diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết
của lý luận, hoặc giả có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi
vận dụng lý luận vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả hoặc có thể
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr.580.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
326
không, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý luận
phải do thực tiễn quy định. Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh
cho phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận
thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả tính
hiện thực trực tiếp”(1).
III - Ý NG ĨA P ƢƠNG P ÁP LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC T ỐNG
N ẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ T ỰC TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN CÁC MẠNG
IỆN NAY Ở NƢỚC TA
1. Để phát triển lý luận phải luôn luôn bám sát thực tiễn, phản
ánh đƣợc yêu cầu của thực tiễn, khái quát đƣợc những kinh nghiệm
của thực tiễn.
Thực tiễn là cái được phản ánh, lý luận là cái phản ánh. Để hiểu
được thực tiễn dưới dạng hình tượng lôgic nhất thiết phải hình thành lý
luận. Bản thân thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển và biến đổi. Quá
trình đó diễn ra có lúc tuân theo quy luật, có lúc không, có lúc khá phức
tạp. Để hình thành lý luận, nhận thức phải bám sát quá trình đó. Thực tiễn
lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần (Lênin), bám sát thực tiễn không chỉ đơn
giản phản ánh phù hợp thực tiễn đương đại mà còn phải so sánh, đối chiếu,
phân tích để chọn lọc thực tiễn mang tính khách quan, mang tính quy luật
làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận. Không phải mọi thực đều là tiêu
chuẩn của chân lí, của lý luận, mà chỉ những thực tiễn nào vừa mang tính
điển hình, vừa mang tính trực tiếp mới thực sự là cơ sở của lý luận.
Có thể nói, mọi hoạt động của con người có thể khái quát thành lý
luận. Thế nhưng, có những thực tiễn bản thân nó đã mang tính lý luận nên
nó không đòi hỏi phải khái quát thành lý luận. Khả năng nhận thức của con
người vừa vô hạn, vừa hữu hạn (Ph. Ăngghen); do đó, con người không thể
và không nên khái quát tất cả thực tiễn thành lý luận. Lý luận vừa mang
tính tuyệt đối, vừa mang tính tương đối, một trong những tính tương đối
của lý luận là khái quát thực tiễn thiết thực, trực tiếp. Chính từ tính tương
đối này để hình thành lý luận tuyệt đối. Nếu lý luận không phản ánh nhu
cầu của thực tiễn, không đáp ứng yêu cầu của thực tiễn thì lý luận trước
sau cũng bị lãng quên, hoặc chí ít cũng không được tôn trọng hoặc coi
thường lý luận.
(1)
V.I. Lênin: Bút ký triết học, Toàn tập, NXB. Matxcơva, 1981, tr..230.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
327
Kinh nghiệm hoạt động của con người là cơ sở để hình thành lý luận.
Đó là tri thức trực tiếp góp phần tích cực vào quá trình tồn tại của loài
người. Lý luận phải phản ánh khái quát được kinh nghiệm của loài người
thì vừa đạt được tính khoa học, vừa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để
tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là thể hiện cụ thể tính thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong hoạt động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kế thừa tư tưởng của các nhà lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng
thế kỉ XVIII - XIX, C. Mác - Ph. Ăngghen đã dần dần hình thành lý
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_triet_hoc_to_thanh_le.pdf