TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ, TRUNG ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm
1) Hoàn cảnh lịch sử
Lịch sử Trung Hoa cổ đại chia thành hai thời kỳ:
+ Thời tam đại (Ba triều đại:nhàHạ, nhà
Thương và nhà Tây Chu (thế kỷ XI-VIII TCN).
+ Thời kỳ Xuân thu-Chiến quốc
-Thời kỳ Xuân Thu (770-475)
-Thời kỳ Chiến quốc (475-221)
Triết học Trung Hoa ra đời trong thời kỳ Xuân
50 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Triết học - Chương II: Hái lược lịch sử triết học phương đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC
CHƯƠNG TRÌNH CAO HỌC
CHƯƠNG II
KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
PHƯƠNG ĐÔNG
Phần B
NGƯỜI BIÊN SOẠN
PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG
TS. LÊ HỮU ÁI
B. TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ, TRUNG ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm
1) Hoàn cảnh lịch sử
Lịch sử Trung Hoa cổ đại chia thành hai thời kỳ :
+ Thời tam đại (Ba triều đại: nhà Hạ, nhà
Thương và nhà Tây Chu (thế kỷ XI-VIII TCN).
+ Thời kỳ Xuân thu- Chiến quốc
- Thời kỳ Xuân Thu (770-475)
- Thời kỳ Chiến quốc (475-221)
Triết học Trung Hoa ra đời trong thời kỳ Xuân
Thu – Chiến Quốc.
Trong thời kỳ Xuân thu-Chiến quốc, một loạt vấn đề xã
hội quan trọng đặt ra cho các nhà triết học, trong đó vấn đề
quan trọng nhất là tìm con đường, kế sách đưa đất nước
Trung Hoa từ loạn thành trị.
Các thế lực phong kiến đang lên có nhu cầu sử dụng
những người hiền tài và đồng thời cũng để cho họ có được
tự do tư tưởng trong những giới hạn nhất định. Những điều
kiện đó tạo ra một môi trường thuận lợi cho các nhà triết
học phát triển và khẳng định quan điểm của mình.
Chính vì thế, xuất hiện nhiều trường phái triết học đa
dạng. Họ đưa ra nhiều con đường, kế sách khác nhau, đối
lập nhau, đấu tranh với nhau, tạo ra không khí sôi động
trong đời sống tinh thần của xã hội Trung Quốc. Lịch sử
Trung Quốc gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử”,
“Bách gia tranh minh”.
2) Đặc điểm triết học Trung Hoa cổ đại
- Nhấn mạnh tinh thần nhân văn, bàn nhiều vấn đề con
người, còn vấn đề triết học tự nhiên thì ít được bàn đến.
- Ít bàn đến vấn đề tâm linh, siêu tự nhiên.
- Chú trọng triết học chính trị, đạo đức. Mục đích cao nhất
của triết học là tìm con đường, kế sách để chấm dứt tình
trạng loạn lạc, đem lại thái bình thịnh trị.
- Nhấn mạnh sự hài hòa giữa xã hội và tự nhiên (thiên
nhân hợp nhất), sự thống nhất giữa các mặt đối lập (trung
dung).
- Phương pháp tư duy trực giác, ít chú trọng đến sự lý giải,
chứng minh.
II. CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC TRUNG
HOA CỔ ĐẠI
1) Thuyết Ngũ hành, Âm dương
Thuyết Ngũ hành
Là một thuyết duy vật trực quan, chất phác
ở Trung hoa cổ đại, giải thích nguồn gốc của
vũ trụ từ 5 yếu tố vật chất: Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa , Thổ.
Ngũ hành có mối quan hệ:
- Tương sinh (chuyển hóa lẫn nhau)
- Tương khắc (thắng nhau)
Mộc
Thủy Hỏa
ThổKim
Tương sinh
Mộc sinh Hỏa
Hỏa sinh Thổ
Thổ sinh Kim
Kim sinh Thủy
Thủy sinh Mộc
Mộc sinh Hỏa
Tương khắc
Thủy khắc Hỏa
Hỏa khắc Kim
Kim khắc Mộc
Mộc khắc Thổ
Thổ khắc Thủy
Thủy khắc Hỏa
Thuyết Ngũ hành còn được vận
dụng để giải thích các giác quan,
các phương hướng, các mùa, các
hành tinh, v.v..
Thuyết Âm dương
Âm và Dương là hai
mặt đối lập tạo nên vũ
trụ và vạn vật.
Dựa vào thuyết Âm Dương, người ta đưa ra nhiều cách giải thích
sự hình thành vũ trụ.
- Vũ trụ lúc đầu là một thể thống nhất (Thái cực), sau đó phân ra
thành hai mặt đối lập (Lưỡng nghi). Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái
dương, Thái âm, Thiếu dương, Thiếu âm). Tứ tượng sinh Bát quái
- Có cách giải thích khác: Vũ trụ ban đầu là một khí thống nhất
(Nguyên khí) từ đó sinh khí Dương và khí Âm. Khí Dương sinh ra
Trời, khí Âm sinh ra Đất. Trời Đất (Dương Âm) giao hòa sinh ra
Người. Từ Trời , Đất, Người sinh ra vạn vật
Về sau, Âm và Dương còn được coi là hai mặt
đối lập tồn tại trong tất cả sự vật hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội.
Dương-Âm dùng để chỉ các mặt có các thuộc
tính đối lập, như: sáng – tối, nóng – lạnh, nhẹ -
nặng, cứng-mềm, mạnh-yếu, chủ động-bị động,
chủ đạo – phụ thuộc Chẳng hạn, trời-đất, mặt
trời-mặt trăng (Dương lịch-Âm lịch), sáng - tối,
ngày-đêm, sống-chết (Dương gian-Âm phủ), nam-
nữ, vua-tôi, quân tử-tiểu nhân
Âm – Dương không loại trừ nhau, mà
trái lại tồn tại gắn bó với nhau, chứa
đựng lẫn nhau (trong dương có âm, trong
âm có dương), chúng tạo tiền đề cho
nhau, chuyển hóa lẫn nhau.
Sự thống nhất hài hòa giữa Âm và
Dương làm cho sự vật phát triển
2) NHO GIA (Nho giáo)
Là trường phái triết học có ảnh hưởng lớn
nhất, là hệ tư tưởng thống trị trong suốt thời
kỳ phong kiến ở Trung Quốc và nhiều nước
khác như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên.
Khổng Tử là người sáng lập,
Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên
nghiệm.
Tuân Tử phát triển về phía duy vật.
Kinh điển của Nho gia gồm có “tứ thư”, “Ngũ
kinh”
- Tứ thư gồm có: 1) Luận ngữ (論語): sách ghi
chép lại những lời dạy của Khổng Tử do học trò của
Khổng Tử sưu tập và biên soạn, 2) Mạnh Tử: Sách
ghi chép về Mạnh tử. 3) Đại học: sách nói về
đường lối giáo dục của Nho gia, 4) Trung dung:
sách nói về đường lối triết học.
- Ngũ kinh gồm: Kinh Thi, Kinh thư, Kinh lễ,
Kinh Nhạc, Kinh Xuân Thu. Những sách này
được cho là do Khổng Tử san định (biên tập).
Khổng Tử (551-479) tên là
Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ở
nước Lỗ (nay là Huyện Khúc
Phụ, tỉnh Sơn Đông), trong
một gia đình quý tộc đang sa
sút.
Khổng Tử bắt đầu giữ một chức quan nhỏ ở nước Lỗ. Không
được vua nước Lỗ trọng dụng, Khổng Tử đi đến nhiều nước chư hầu
khác, nhưng ở đâu đạo lý của ông cũng không được nghe theo. Cuối
cùng ông trở về nước Lỗ, mở trường dạy học với lòng mong muốn
học trò sẽ thực hiện đạo lý của mình.
Người Trung Hoa tôn Khổng Tử là “Vạn thế sư biểu”. Tổ chức
UNESCO công nhận Khổng Tử là danh nhân văn hóa thế giới.
a) Quan điểm bản thể luận:
- Khổng Tử coi Trời đôi khi như là tự nhiên,
đôi khi như là lực lượng siêu tự nhiên. Mệnh
trời (Thiên mệnh) quy định tất cả.
Ông nói: “Sống chết do mệnh, giàu sang tại trời”
(sinh tử tại mệnh, phú quý tại thiên). “Đạo của ta
thi hành ra được cũng do mệnh trời, mà bị phế vong
cũng là do mệnh trời”.
Hiểu biết mệnh trời là điều kiện trở thành người
quân tử. “Không hiểu mệnh trời thì không lấy gì làm
người quân tử”. Trong 3 điều sợ của người quân tử
có sợ mệnh trời.
+ Khổng Tử không phủ nhận sự tồn tại của
quỷ thần, nhưng từ chối giải thích về quỷ
thần.
Ông nói: “Đạo của người chưa biết sao
biết được đạo quỷ thần. Không hiểu được con
người sống thì không có tư cách hỏi chuyện
sau khi chết”.
Ông phê phán mê tín, khuyên người ta tôn
kính nhưng hãy xa lánh quỷ thần (kính nhi
viễn chi).
b) Quan điểm chính trị-xã hội
- Khổng Tử coi xã hội là tổng hợp các mối
quan hệ giữa người với người, trong đó các
quan hệ chính trị-đạo đức đóng vai trò nền
tảng. Đó là các mối quan hệ : vua tôi, cha
con, chồng vợ, anh em, bạn bè.
Năm mối quan hệ này về sau được Nho gia
gọi là Ngũ luân, trong đó có ba mối quan hệ
cốt lõi: vua -tôi, cha-con, chồng-vợ được gọi là
Tam cương.
- Khổng Tử coi nguyên nhân xã hội
loạn lạc là do sự suy thoái đạo đức xã
hội. Ông mong muốn khôi phục lại trật
tự xã hội kiểu nhà Chu, một kiểu xã hội
được ông coi là mẫu mực, lý tưởng. Đó
là một trật tự xã hội có đẳng cấp, tôn ti
trật tự, từ vua quan đến thứ dân ai cũng
phải lấy nhân, nghĩa, lễ, chính danh làm
chuẩn mực.
- Những phạm trù cơ bản trong học thuyết chính
trị - đạo đức của Khổng Tử là Nhân, Nghĩa, Lễ,
chính danh.
+ Nhân 仁 là lòng thương người. Phàn Trì
hỏi thế nào là Nhân, Khổng Tử đáp “Ái nhân” (Yêu
người). Nhân được hiểu như là “toàn đức” Nhân có
hai khía cạnh – trung và thứ:
Trung là thành thật với người, “Mình muốn lập
thân thì hãy giúp người khác lập thân. Mình muốn
thành đạt thì hãy giúp người khác thành đạt”.
Thứ là lòng vị tha, khoan dung. “Điều mình
không muốn thì đừng làm cho người khác” (Kỷ sở
bất dục vật thi ư nhân).
Trong đạo nhân, hiếu là gốc. Hiếu không chỉ thể
hiện ở việc nuôi nấng cha mẹ mà quan trọng nhất là
lòng thành kính. Khổng Tử nói: “Nuôi cha mẹ mà
chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật”.
+ Nghĩa: Nhân gắn liền với nghĩa. Nghĩa
là hành vi đạo đức biểu hiện của lòng nhân.
Người làm việc nghĩa thì hy sinh lợi ích
của mình vì người khác. Vì thế, nghĩa và lợi
không thể dung hợp với nhau. Khổng Tử nói:
“Quân tử biết rõ về nghĩa, tiểu nhân biết rõ về
lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi).
+ Lễ là hình thức biểu hiện của nhân, biểu
hiện lòng thương yêu, quý trọng con người. Lễ
bao gồm nhiều mối quan hệ rộng lớn từ quan
hệ với thần linh (tế lễ) đến quan hệ ứng xử
giữa người với người, quan hệ đạo đức, phong
tục tập quán, quan hệ nhà nước, luật pháp, v.v..
Theo Khổng Tử, tuân theo lễ là một điều
kiện để làm người nhân: “Khắc kỷ phục lễ vi
nhân”. Khổng Tử nói: “Không biết lễ không
thể đứng vững”.
Người quân tử không bao giờ làm trái với
lễ. “Cái gì trái với lễ thì không nhìn, điều gì
trái với lễ thì không nghe, điều gì trái với lễ
thì nói, điều gì trái với lễ thì không làm” (Phi
lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi
lễ vật động).
Cùng với lễ, thi và nhạc cũng có vai trò
quan trọng. Khổng Tử nói “Hưng khởi là nhờ thi,
tạo lập là nhờ lễ, thành đạt là nhờ nhạc”. Nhạc mà
chính trực, trang nghiêm, hòa nhã có tác dụng nuôi
dưỡng tâm tính, cảm hóa lòng người, hướng cái tâm
con người tới chân, thiện, mỹ.
+ Chính danh:
Khổng Tử coi chính danh là điều cơ bản để
trị nước.
Danh là tên, khái niệm, bản chất.
Chính danh có nghĩa là người ở cương vị
nào thì phải xứng đáng với cương vị đó, phải
làm đúng danh phận, chức trách của mình,
“vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”
(Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử).
Danh mà không chính thì ngôn (lời nói) sẽ
không thuận (không có tính thuyết phục, sẽ
không được nghe và làm theo).
Khổng Tử nói: “Thân mình chính được thì
không phải hạ lệnh mọi việc vẫn tiến hành. Thân
mình mà không chính được thì dù có hạ lệnh cũng
chẳng ai theo”.
Nhân, lễ, chính danh không chỉ là đạo làm
người, mà còn là đạo trị nước.
Khổng Tử coi trọng giáo dục, phản đối bạo
lực và chiến tranh. Đường lối này được gọi là
đường lối “đức trị”, hay “nhân trị”.
Để cho đất nước thịnh trị, phải biết thượng
hiền (tôn trọng người hiền tài). Phải thực hiện
3 điều: thực túc, binh cường, dân tín.
c) Đường lối giáo dục
Khổng Tử là nhà giáo dục lớn. Học trò của ông có
đến 3000, trong đó có nhiều người nổi tiếng. Khổng
Tử cho rằng tính người (bản tính tự nhiên của con
người khi sinh ra) vốn gần nhau nhưng do việc rèn
luyện của mỗi người khác nhau vì thế nên xa nhau
(Tính tương cận, tập tương viễn).
Mục đích của giáo dục là rèn luyện nhân tính.
Khổng Tử nói: “Cái đạo đại học là ở việc làm rạng
cái đức sáng, đổi mới con người, đạt đến điều chí
thiện” (Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại tân
dân, tại chỉ ư chí thiện).
Người nhân cũng là người có trí, dũng.
Muốn có trí phải học tập, tu dưỡng. Nếu không
học thì dù có thiện tâm, nhân đức, trung tín
đến đâu cũng bị cũng bị cái ngu muội, phóng
đãng, phản loạn ... che lấp.
Người quân tử học không chỉ để hiểu biết sự
vật, có tri thức, biết đạo lý (cách vật, trí tri),
mà còn để tu thân (sửa đổi bản thân), tề gia
(làm cho gia đình đi vào nền nếp), trị quốc (cai
trị đất nước), bình thiên hạ (làm cho thiên hạ
thái bình).
Nguyên tắc giáo dục của Khổng Tử là:
+ Học đi đôi với hành. Thực hành tri thức, đạo lý
của mình chính là ra làm quan giúp vua giúp nước.
Khổng Tử nói: “Trong lúc xã hội rối ren, không ra
làm quan không phải là kẻ trí, không ra giúp đời
không phải là người nhân”. Tuy nhiên, đối với
người quân tử, học không phải phải để mưu cầu
chức tước, bổng lộc.
+ Học không biết mệt mỏi, phải đào sâu suy nghĩ.
+ Học (lý thuyết) đi đôi với tập (rèn luyện kỹ
năng) (Học nhi thời tập chi)
+ Thông qua việc nghiên cứu cái cũ để biết cái
mới (Ôn cố nhi tri tân).
Mạnh Tử (372-289)
tên là Kha, tự là Tử Dư,
người nước Lỗ.
Mạnh Tử phát triển học
thuyết Khổng Tử về phía
duy tâm tiên nghiệm.
Ông cho rằng chẳng có
việc gì xảy ra mà không
do mệnh trời. M¹nh Tö
Theo ông, vạn vật có đủ trong ta. Chỉ cần
thành ý, chánh tâm thì có thể nhận thức được tất cả.
Về bản tính của con người, Mạnh Tử đưa ra
thuyết tính thiện. Con người sinh ra vốn có bản tính
tự nhiên là thiện.
Theo Mạnh Tử, con người có 4 đức tính lớn (tứ
đức): nhân, nghĩa, lễ, trí. Bốn đức lớn đó bắt nguồn
ở “tứ đoan” (4 đầu mối, mầm mống của thiện) đó là
lòng trắc ẩn (biết thương xót), lòng tu ố (biết thẹn,
ghét), lòng từ nhượng (biết cung kính) và lòng thị
phi (biết phải trái). Tứ đoan là những cái vốn có khi
con người sinh ra. Nếu được giáo dục tốt, những
mầm mống này sẽ phát triển triển thành tứ đức.
tÝnh thiÖn
Tø ®øc
Lßng t r ¾c Èn
nh©n
Lßng t u è
nghÜa
l ßng t õ nh î ng
l Ô
l ßng t hÞ phi
t r Ý
Tø ®oan
Về đường lối chính trị: Mạnh Tử phát triển học
thuyết nhân của Khổng Tử thành học thuyết nhân
chính, chủ trương lấy đức để thu phục lòng người,
phản đối việc cai trị bằng bạo lực.
Ông phân biệt vương chính (cai trị bằng nhân
nghĩa) với bá chính (cai trị bằng bạo lực). Mạnh tử
nói: “Lấy sức mạnh thu phục người, không chỉ lòng
người không theo mà còn vì sức mạnh không đủ.
Lấy đức thu phục người thì người ta vui lòng theo
mình một cách thành thực như bảy mươi đệ tử theo
Khổng Tử vậy”.
Mạnh Tử coi dân là quan trọng nhất, kế đến là
giang sơn xã tắc, vua là thường thôi “Dân vi quý, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh”.
Quan hệ vua tôi là quan hệ hai chiều, tôn trọng
lẫn nhau. Nếu vua coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi sẽ
coi vua như kẻ thù. Nếu vua không có đạo đức thì
không còn xứng đáng nữa và nhân dân có quyền lật
đổ ngôi vua.
Thời Mạnh Tử, chế độ công hữu tan rã, chế độ tư
hữu ra đời. Mạnh tử chủ trương để cho dân có hằng
sản mới có hằng tâm nghĩa là dân phải có tư liệu
sản xuất (ruộng đất để canh tác) ổn định thì mới có
cái tâm ổn định được.
Tuân Tử (315-220) tên là Huống, tự là
Khanh, người nước Triệu, nhà triết học duy
vật kiệt xuất ở Trung Hoa cổ đại.
Tuân Tử phát triển học thuyết của Khổng
Tử, đề cao nhân nghĩa, lễ nhạc, chính danh.
Tuy nhiên, ông phản đối nhiều quan điểm của
Khổng Tử và Mạnh Tử về các vấn đề chính
trị, đạo đức.
- Về bản thể luận, Tuân Tử đứng trên quan
điểm duy vật, vô thần. Ông cho tự nhiên gồm
ba bộ phận: Trời, đất, người.
Theo Tuân Tử, Trời chỉ là một bộ phận của
tự nhiên; đạo trời diễn ra theo lẽ tự nhiên,
không liên quan đến đạo người.:
“Trời hoạt động theo bình thường, không vì
vua Nghiêu mà để cho còn, không vì vua Kiệt
mà làm cho mất”... “Trời không vì người sợ
rét mà bỏ mùa đông. Đất không vì người sợ
xa mà rút ngắn lại”.
Như vậy, trời không quyết định vận mệnh
con người. Việc trị hay loạn, lành hay dữ là do
con người làm ra, chứ không phải tại trời.
Tuân Tử phê phán mê tín dị đoan. Ông cho
rằng những hiện tượng quái dị như sao sa,
nhật, nguyệt thực “đó là những biến hóa của
trời đất, âm dương, cho là lạ thì nên, mà lo sợ
thì không nên, chúng không thể quyết định
điều họa phuc, tốt xấu của con người, cho nên
không đáng sợ.
- Về xã hội và con người, Tuân Tử cho rằng
con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên.
Tuân Tử không tin ở thiên mệnh. Theo ông, con
người không chỉ hành động phù hợp với tự nhiên,
mà còn có thể cải tạo tự nhiên (sản xuất, tiết kiệm,
giữ gìn sức khỏe) làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đối với những nghi thức cúng tế, ông nói
“Người quân tử lấy đó làm văn minh, còn trăm họ
thì lấy đó làm thần linh. Lấy làm văn minh thì tốt.
Lấy làm thần linh thì xấu”.
- Về quan niệm đạo đức, ông đưa ra thuyết tính
ác. Theo ông, “Tính của con người là ác, thiện là do
con người làm ra”. Tính ác của con người bắt
nguồn từ việc tìm cách thỏa mãn những nhu cầu
sinh lý của mình.
3) ĐẠO GIA
Đạo gia do Lão Tử sáng lập và được
Dương Chu, Trang Tử phát triển.
Lão Tử sống cùng thời với Khổng Tử. Tên
thật, quê hương của ông còn là vấn đề tranh
cãi. Theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên, ông họ
Lý, tên Nhĩ, người nước Sở. Tác phẩm duy
nhất còn lại của ông là cuốn “Đạo Đức kinh”,
khỏang 5000 từ.
Trang Tử tên là Chu, phát triển học thuyết
Lão Tử thành một hệ thống sâu sắc trong
cuốn “Nam Hoa kinh”.
Đạo là phạm trù trung tâm trong học
thuyết Lão Tử. Theo Lão Tử. Đạo là cơ sở,
nguồn gốc đầu tiên của vạn vật.
“Đạo là mẹ của vạn vật, không biết nó con ai,
không biết nó tên gì nên tạm đặt tên nó là đạo”.
Nó vô sắc, vô thanh, vô hình, nhìn không thấy, nghe
không thấy, nắm không được. Nó không có đầu, không có
đuôi. Đạo vô cùng to lớn và bất biến. Nó vừa không, vừa
có. Đạo vừa là cái duy nhất, vừa muôn hình muôn vẻ. Vạn
vật sinh ra từ đạo rồi trở về với đạo.
“Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh
ra vạn vật”. “Đạo sinh ra vạn vật, Đức nuôi dưỡng, che
chở cho vạn vật”.
Trong học thuyết Lão Tử, Đạo còn là quy
luật sinh thành, biến hóa của muôn vật.
Đạo Trời luôn luôn giữ cho vận động được
thăng bằng. “Cái gì khuyết ắt được tròn đầy,
cái gì cong sẽ được thẳng, cái gì cũ thì mới
lại, cái gì ít sẽ được, nhiều sẽ mất”. Trong
quá trình phát triển, cái gì đạt đến đỉnh cao thì
sẽ trở thành cái đối lập với nó, tức quay lại cái
cũ trong một vòng tuần hoàn.
Bất cứ sự vật nào cũng là sự thống nhất
giữa hai mặt đối lập, làm tiền đề cho nhau,
nương tựa lẫn nhau. Ông nói:
“Vạn vật cõng âm mà ôm dương”
“Đẹp và xấu, thiện và ác liên hệ với nhau.
Có và không sinh lẫn nhau. Dễ và khó tạo nên
lẫn nhau; ngắn và dài làm rõ lẫn nhau; cao và
thấp dựa vào nhau; âm và thanh hòa vào nhau;
trước và sau theo nhau”.
Vô vi:
Mở rộng quan niệm “đạo” trong đời sống xã
hội, Lão Tử đưa ra học thuyết “vô vi”.
Vô vi là sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần
phác, không làm trái với tự nhiên, không can thiệp
vào trật tự tự nhiên.
Đường lối chính trị
Vô vi còn là đường lối chính trị. Lão Tử cho rằng
chỉ cần làm cho dân “no bụng”, “xương cốt mạnh”
mà “lòng hư tĩnh”, “khiến cho dân không biết,
không muốn”. Không dùng luật pháp, không cần
giáo dục nhân nghĩa, lễ, trí .
“Theo chính sách vô vi thì mọi việc đều trị”
Lão Tử phản đối cả đường lối chính trị và đường
lối giáo dục của Nho gia. Theo Lão Tử, lễ làm cho
người ta giả dối, trí làm cho dân khôn lanh, xảo trá.
Ông cũng kêu gọi từ bỏ nghệ thuật, vì ông coi đó là
những thứ xa hoa.
Lão Tử chủ trương hạn chế quyền lực của nhà
nước và hoạt động của nhân dân đến mức tối đa. Để
cho dân sống theo lối sống chất phác thời nguyên
thủy: không dùng công cụ thay sức người, không
dùng thuyền xe, không dùng binh khí, để dân sống
trong những nước nhỏ không có quan hệ với nhau,
chỉ cần học lối thắt gút.
Về lý luận nhận thức: Lão Tử đứng trên
lập trường duy tâm chủ quan. Sự hiểu biết
theo ông hình như có sẵn, không cần học,
không cần thực tiễn.
Ông nói: “Không ra khỏi nhà mà biết được
việc thiên hạ. Không dòm ra ngoài cửa mà
biết được đạo trời”.
“Càng đi xa càng biết được ít. Cho nên
thánh nhân không đi mà biết, không nhìn mà
thấy rõ, không làm mà nên”.
Lão Tử phản đối đường lối giáo dục của Khổng
Tử. Theo Lão Tử, trí tuệ là dục vọng, là nguyên nhân
của xảo trá.
“Trí tuệ xuất, hữu đại nguỵ” (Trí tuệ xuất hiện thì
có xảo trá lớn).
Muốn khỏi lo lắng thì đừng học “tuyệt học vô ưu”.
Chỉ cần để lòng hư tĩnh thì mau hiểu được đạo, trở
về với đạo, đồng nhất với đạo.
Về đạo đức cá nhân, Lão tử chủ trương sống từ
tốn, không tranh giành, lấy ân báo oán, biết thế nào
là đủ, không tham lam.
4) PHÁP GIA
- Sự hình thành và phát triển của tư
tưởng pháp trị
+ Thời kỳ nhà Chu, xã hội được cai trị
bằng hai phương pháp:
Lễ chi phối cách cư xử của tầng lớp quý
tộc, gọi là quân tử.
Hình chỉ áp dụng riêng cho thứ dân, gọi
là tiểu nhân. Thời đó pháp luật chưa được
công bố công khai.
+ Quản Trọng (khoảng thế kỷ VI trước CN)
người đầu tiên bàn đến pháp luật như là phương
pháp trị quốc và cần được công bố rộng rãi cho dân
chúng biết.
+ Thời Chiến quốc có 3 triết gia là Thận Đáo,
Thân Bất Hại và Thương Ưởng chủ trương pháp trị
với pháp, thuật, thế.
Thuyết pháp trị được Hàn Phi phát triển lên đỉnh
cao trên cơ sở tổng hợp những yếu tố hợp lý trong
ba học thuyết Nho, Lão gia và Pháp.
- Hàn Phi và tư tưởng pháp trị
Hàn Phi (280-233) là vương thất nước Hàn
được Tần Thủy Hoàng trọng dụng, nhưng về
sau bị Lý Tư gièm pha và bị ép uồng thuốc
độc chết.
Kế thừa tư tưởng của Lão Tử, Hàn Phi cho
rằng “đạo” là quy luật phổ biến của giới tự
nhiên tồn tại vĩnh viễn, không thay đổi. Con
người không thể thay đổi được quy luật của vũ
trụ. Tuy nhiên, giới tự nhiên không có ý thức;
vận mệnh con người do con người quyết định.
Hàn Phi là người có tư tưởng vô thần
triệt để. Ông cho rằng không có gì chứng
thực có quỷ thần.
Ông phê phán ảo tưởng và sự có hại trong
đường lối đức trị của Nho gia và dựa vào
thuyết tính ác của Tuân Tử để chứng minh
cho sự đúng đắn của đường lối pháp trị.
Ông cho rằng để cai trị xã hội cần phải có
ba yếu tố là Pháp, Thế , Thuật .
● Pháp là pháp luật. Hàn Phi cho rằng pháp
luật được công bố cho mọi người biết để tuân
theo. Pháp luật phải thay đổi phù hợp với tình
hình cụ thể.
● Thế theo quan niệm của Hàn Phi là địa vi,
thế lực, quyền uy của người cầm đầu.
Ngoài ra, vua phải có thuật.
● Thuật là phương pháp, mưu lược, thủ
đoạn trong việc trị dân.
Nếu pháp được công bố rộng rãi, thì thuật là cơ trí, thủ
đoạn ngấm ngầm của vua, không để ai biết. Chính vì thế,
Hàn Phi nói vua dùng luật như trời, dùng thuật như quỷ.
Đường lối pháp trị của Pháp gia là tư tưởng
của giai cấp quý tộc mới, kiên quyết đoạn
tuyệt với tư tưởng bảo thủ, mê tín đương thời.
Học thuyết Pháp gia là công cụ giúp vua
Tần thống nhất Trung Quốc. Tuy nhiên, học
thuyết này có chỗ khiếm khuyết nghiêm
trọng. Đó là sự tuyệt đối hóa yếu tố pháp luật,
phủ nhận vai trò của yếu tố đạo đức, nặng
hình phạt tàn bạo, nên đường lối cai trị như
vậy tất yếu dẫn đến chế độ độc tài, mất lòng
dân, và đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến
sự sụp đổ nhanh chóng của nhà Tần.
III. Sự phát triển Tư tưởng triết học
Trung Hoa thời trung đại
1. Thời Nhà Hán, Đổng Trọng Thư
phát triển yếu tố duy tâm trong tư tưởng
Khổng mạnh kết hợp với thuyết Âm
Dương-Ngũ hành thành một học thuyết
duy tâm thần bí:
- Thuyết mệnh trời
- Thiên nhân hợp nhất
- Thiên nhân tương cảm
Thời Nguỵ Tấn, xuất hiện Huyền học,
Danh giáo.
Thời Tùy, Đường, Phật giáo du nhập và
phát triển ở Trung Quốc
Thời Tống, Minh:
- Lý học của Chu Đôn Hy, Thiệu Ung,
tiếp đến là hai anh em Trình Dy và Trình
Hạo, sau đó là Trương Tải
- Tâm học của Lục Cửu Uyên và
Vương Thủ Nhân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong02b_khai_luoc_lich_su_triet_hoc_phuong_dong_b_trung_hoa_9452_6088.pdf