Giáo trình Tài chính tiền tệ - Ngành: Kế toán doanh nghiệp

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TÀI CHÍNH

Giới thiệu

Chương 1 giới thiệu sự ra đời và phát triển tài chính, chức năng của tài

chính và hệ thống tài chính.

Mục tiêu

+ Trình bày được sự ra đời và phát triển, chức năng của tài chính.

+ Trình bày được khái niệm, cơ cấu, đặc điểm hệ thống tài chính.

+ Giải thích được mối quan hệ giữa các chủ thể tài chính.

Nội dung chính

1.1. Sự ra đời và phát triển tài chính

1.1.1 Khái niệm tài chính

Hiện nay, nghiên cứu về tài chính có rất nhiều nhà nghiên cứu thực hiện và

cũng đưa ra nhiều khái niệm về tài chính. Theo quan điểm của P.J.Drake tiếp cận

tài chính theo hai quan điểm, theo nghĩa hẹp, tài chính đơn thuần phản ánh hoạt

động thu, chi tiền tệ của chính phủ; còn theo nghĩa rộng hơn, tài chính phản ánh

các khoản vay và cho vay ảnh hưởng đến mức cung tiền trên thị trường.

Theo quan điểm kinh tế học hiện đại, tài chính biểu thị vốn dưới dạng tiền

tệ, nghĩa là ở dạng các khoản có thể vay mượn hay đóng góp vốn thông qua thị

trường tài chính hay định chế tài chính. Tóm lại, có hai quan điểm chính về tài

chính, quan điểm thứ nhất, đưa ra khái niệm về tài chính dựa vào hoạt động tài

chính của chính phủ và quan điểm thứ hai đưa ra khái niệm về tài chính trên cơ

sở vốn dưới dạng tiền tệ, cụ thể như sau:

- Quan điểm 1: Tài chính phản ánh hoạt động thu – chi của chính phủ; hoặc

phản ánh các khoản vay và cho vay.

- Quan điểm 2: Tài chính là vốn dưới dạng tiền tệ; tức là sự tạo lập và sử

dụng quỹ tiền tệ để đáp ứng nhu cầu khác nhau.

1.1.2 Đặc điểm của tài chính

Theo cách tiếp cận: Tài chính là vốn dưới dạng tiền tệ, tài chính có các đặc

điểm sau:

Thứ nhất, tài chính là nguồn lực thể hiện dưới dạng tiền tệ, được chấp nhận

trên thị trường là công cụ trao đổi hay chuyển giao giá trị: tiền mặt, tiền gửi và

các loại tài sản tài chính.

Thứ hai, tài chính thể hiện quan hệ chuyển giao giữa các chủ thể trong nền

kinh tế: từ người có vốn đến người cần vốn.

Thứ ba, tài chính là những quan hệ trong đó diễn ra sự chuyển giao nguồn

lực giữa các chủ thể tài chính với nhau.

1.1.3 Lịch sử ra đời tài chính

Khi nền sản xuất hàng hóa ra đời thì quan hệ trao đổi hàng hóa – tiền tệ

đóng vai trò quyết định trong quá trình trao đổi. Quá trình trao đổi chính là quá

trình phân phối tạo ra nguồn tài chính cho chủ thể trong nền kinh tế. Quá trình

sản xuất liên tục làm cho nguồn tài chính luôn được tạo lập – phân phối – sử

dụng và từ đó khái niệm tài chính hình thành.

Ngày nay, tài chính trở thành một khoa học nghiên cứu cách thức mà chủ

thể kinh tế xác lập, phân phối và sử dụng nguồn tài chính của mình. Trong nền

kinh tế có nhiều chủ thể kinh tế và tương ứng với mỗi chủ thể ta có một lĩnh vực

nghiên cứu, cụ thể là:

- Chủ thể là cá nhân, ta có lĩnh vực tài chính cá nhân.

- Chủ thể là doanh nghiệp, ta có lĩnh vực tài chính doanh nghiệp.

- Chủ thể là nhà nước, ta có lĩnh vực tài chính công.

Mỗi chủ trong nền kinh tế khi hoạt động đều có mục tiêu riêng và các chủ

thể này sẽ sử dụng các công cụ khác nhau để đạt mục tiêu ấy

pdf177 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 25/05/2022 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Tài chính tiền tệ - Ngành: Kế toán doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa vào chu trình kinh doanh. Nghĩa là việc vay mượn phụ thuộc vào giá trị sử dụng của hàng hóa bán chịu. - Hạn chế về phạm vi: Tín dụng thương mại chỉ xảy ra giữa những doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau. 6.3.2. Tín dụng ngân hàng 6.3.2.1. Khái niệm Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các pháp nhân hoặc thể nhân trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian, quan hệ tín dụng ngân hàng được thể hiện qua hai khâu: Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 123 - Khâu huy động vốn: Ngân hàng là một chủ thể đi vay, huy động khai thác các nguồn vốn tạm thời nhàn rồi chưa sử dụng để hình thành nên nguồn vốn cho vay. Hoạt động này, được thực hiện dưới các hình thức ngân hàng huy động tiền gửi từ các cá nhân, doanh nghiệp, vay mượn qua các hợp đồng hoặc dưới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng trên thị trường. - Khâu cho vay: Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng sẽ thực hiện phân phối cho vay cấp tín dụng lại cho các chủ thể có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với mục đích sử dụng vốn tín dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Công cụ phục vụ chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngân hàng là kỳ phiếu ngân hàng, các loại chứng chỉ huy động vốn. 6.3.2.2. Đặc điểm Về hình thức biểu hiện: Hoạt động của tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thái tiền tệ gồm tiền mặt và bút tệ. Do đặc tính về lĩnh vực nghành nghề kinh doanh, để tập trung được lượng vốn lớn từ nhiều chủ thể, cũng như phân phối đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể kịp thời và đầy đủ, ngân hàng vận dụng vốn dưới hình thái tiền tệ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Chủ thể trong quan hệ tín dụng ngân hàng: Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng đóng vai trò là chủ thể trung tâm. Ngân hàng vừa thực hiện vai trò là chủ thể đi vay trong khâu huy động, vừa thực hiện vai trò là chủ thể cho vay trong khâu phân phối cho vay. Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa: Xuất phát từ đặc điểm tín dụng ngân hàng được cấp dưới hình thái tiền tệ có thể đáp ứng các nhu cầu khác nhau ngoài nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa, giá trị của món tín dụng có thể không đồng nhất với giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 124 Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngân hàng trở thành loại hình tín dụng phổ biến, đáp ứng mọi nhu cầu bổ sung vốn của nền kinh tế; tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất, thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn đầu tư trung, dài hạn, đáp ứng các nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mua sắm tài sản cố định. Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dung cá nhân. Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Hoạt động của tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở cho việc mở rộng tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố hoặc tái chiết khấu. Đồng thời hoạt động của tín dụng ngân hàng góp phần khắc phục những hạn chế của tín dụng thương mại, mở rộng cung ứng vốn cho các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện cho tín dụng thương mại phát triển. 6.3.2.2. Phân loại * Căn cứ vào yếu tố thời hạn tín dụng: Tín dụng ngân hàng bao gồm ba loại: Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn có thời hạn đến 1 năm, thường đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoặc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng bức thiết của dân cư. Tín dụng trung hạn: Tín dụng trung hạn có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này được sử dụng để bổ sung vốn mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn: Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn được sử dụng để hỗ trợ vốn xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các công trình có quy mô lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại có thời gian hoàn vốn dài. * Căn cứ vào yếu tố đối tượng thực hiện vốn tín dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh: Tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại: Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 125 Tín dụng vốn lưu động: Tín dụng vốn lưu động thể hiện dưới hình thức cho vay để bổ sung vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế. Trên thực tế, loại tín dụng này được thực hiện dưới các hình thức: cho vay để dự trữ hàng hóa, cho vay các khoản chi phí phát sinh trong các công đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh, cho vay để thanh toán các khoản nợ. Tín dụng vốn cố định: Tín dụng vốn cố định là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn cố định hình thành nên tài sản cố định; cải tiến kỹ thuật; mở rộng sản xuất; xây dựng các công trình mới. Thời gian tín dụng là trung và dài hạn. * Căn cứ yếu tố mục đích sử dụng vốn: Tín dụng ngân hàng gồm: Tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hóa: Loại tín dụng này được cấp cho các chủ thể kinh doanh nhằm hỗ trợ vốn để mở rộng hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa. Tín dụng tiêu dùng: Đây là loại hình tín dụng đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân. Mục đích của tín dụng tiêu dùng lad hỗ trợ cải thiện đời sống vật chất, sinh hoạt cho các thành viên trong xã hội, kích thích tiêu dùng, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, đồng thời tín dụng tiêu dùng cũng giúp cho các doanh nghiệp tăng doanh số tiêu thụ, mở rộng thị trường hướng đến tối đa hóa lợi nhuận kinh doanh. Tín dụng tiêu dùng sẽ ngày càng mở rộng và phát triển, cả về giá trị cũng như hình thức, cùng với tiến trình phát triển của kinh tế thị trường. Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển,thu nhập người dân rất cao nhưng tín dụng tiêu dụng phát triển rất mạnh thông qua phương thức cấp tín dụng mà hàng hóa, dịch vụ được cung ứng cho người tiêu dùng một cách tốt nhất. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng, tín dụng tiêu dùng có hai loại:  Hình thức cấp tín dụng bằng tiền: Chủ yêu do ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng thực hiện.  Hình thức cấp tín dụng bằng hàng hóa: Do các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh tiếp hàng. Nó được biểu hiện qua quan hệ mua bán trả góp cho người tiêu dùng. Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 126 * Căn cứ vào tính chất đảm bảo tín dụng: Tín dụng ngân hàng chia thành hai loại: Tín dụng không có đảm bảo trực tiếp: Khoản tín dụng được cấp không có giá trị vật tư, hàng hóa hoặc tài sản làm đảm bảo trực tiếp mà chỉ dựa trên uy tín, sự tín nhiệm của cá nhân, tổ chức tín dụng đối với bên nhận tín dụng. Vì vậy, loại hình tín dụng này còn có tên gọi là tín dụng tín chấp. Mặc dù, không có tài sản hoặc hàng hóa trực tiếp làm đảm bảo, nhưng so với loại tín dụng có đảm bảo thì tín dụng tín chấp có mức độ rủi ro thấp hơn. Bởi lẽ, với tín dụng tín chấp khi cấp tín dụng người cho vay đã kiểm soát rất chặt chẽ năng lực tài chính, hiệu quả của dự án cho vay, khả năng hoàn trả vốn vay đúng hạn và những rủi ro tiềm tang có thể xảy ra đối đối với bên đi vay. Đối với tín dụng có đảm bảo trực tiếp, xuất phát từ bản chất của tín dụng là dựa trên niềm tin, cho nên khi xét duyệt tín dụng do có một số yếu tố chưa đảm bảo an toàn về hạn chế rủi ro, nên người cho vay yêu cầu người đi vay phải áp dụng một số phương thưc để đảm bảo khi cấp tín dụng. Tín dụng có đảm bảo trực tiếp: Loại tín dụng này được thực hiện khi người đi vay có một khối lượng hàng hóa, tài sản tương đương, được dùng trực tếp để đảm bảo cho món nợ vay. Trên thực tế, loại hình tín dụng này được thực hiện dưới các hình thức như: cho vay thế chấp, cho vay cầm cố hoặc bảo lãnh, hoặc dưới dạng thuê mua. Thuê mua còn được gọi là thuê tài chính, một phương thức tài trợ vốn trung và dài hạn cho sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ tín dụng thuê mua được đảm bảo bằng một quyền sở hữu về tài sản đã tài trợ vốn, đó có thể là động sản hay bất động sản, qua phương thức tài trợ này đáp ứng được 100% vốn đầu tư tài sản cố định cho người đi thuê mà không phải vốn tự có tham gia. Như vậy, có thể định nghĩa tín dụng thuê mua là một phương thức cho thuê tài sản chuyên dùng có kèm lời hứa sẽ bán lại về sau, chậm nhất là khi kết thúc hợp đồng, cho người thuê theo giá thỏa thuận từ đầu. Về nguyên tắc, tín dụng thuê mua gồm ba bên liên quan: Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 127  Người đi thuê là doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh có nhu cầu về tài sản, họ sẽ lựa chọn tài sản thuê tại người cung cấp.  Người cung cấp là các doanh nghiệp bán hàng, thỏa thuận các điều kiện mua bán hàng hóa với người đi thuê và ký kết hợp đồng mua bán với công ty cho thuê tài chính.  Người cho thuê đây là các công ty cho thuê tài chính, họ cung cấp các nghiệp vụ tín dụng thuê mua cho các chủ thể có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Trong nghiệp vụ tín dụng thuê mua, người đi thuê lựa chọn tài sản phù hợp với nhu cầu của mình và đề nghị người cho thuê mua tài sản đó. Sauk hi mua tài sản đó, người cho thuê – người sở hữu tài sản thuê – để cho người sử dụng tài sản theo thời hạn được tính trên cơ sở thời gian hữu dụng của tài sản. Trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng tín dụng thuê mua, người đi thuê phải trả tiền thuê cho người cho thuê theo định kỳ đã thỏa thuận ghi trong hợp đồng tín dụng thuê mua. Số tiền thuê phải đảm bảo bù đắp được chi phí khấu hao vốn đầu tư mua tài sản và các khoản chi phí khác có liên quan. Các khoản chi phí về bảo dưỡng, bảo hiểm và các trách nhiệm thường xuyên khác có liên quan đến tài sản thuê phát sinh trong thời gian thuê, người đi thuê phải chịu. Chậm nhất cho đến khi hết hạn hợp đồng, người đi thuê có thể mua tài sản thuê theo giá định trước của hợp đồng ban đầu, hoặc được quyền thuê tiếp, hoặc trả lại tài sản cho người thuê. Tài sản thuê mua có hai loại: động sản và bất động sản, nên tín dụng thuê mua cũng được chia làm hai loại là tín dụng thuê mua động sản và tín dụng thuê mua bất động sản.  Tín dụng thuê mua động sản: Tín dụng này liên quan đến hàng hóa,trang thiết bị không có tính chất nhà cửa, thời hạn thông thường là từ 3 – 5 năm, tín dụng thuê mua động sản thuộc tín dụng trung hạn. Với loại này, người đi thuê thường sẽ mua tài sản sau khi kết thúc hợp đồng thuê theo mức giá thỏa thuận có tính đến số tiền thuê đã từ trước đó. Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 128  Tín dụng thuê mua bất động sản: Tín dụng này có liên quan đến những tư liệu sản xuất có tính chất như nhà cửa, vật kiến trúc . có giá trị cao và thời gian lâu dài từ 15-20 năm. Tín dụng thuê mua bất động sản thuộc loại tín dụng dài hạn. 6.4. Khái niệm và phân loại lãi suất 6.4.1. Khái niệm lãi suất Một người có tiền nhàn rỗi có thể đưa ra hai lựa chọn: (i) gởi ngân hàng; (ii) đầu tư vào thị trường tài chính. Hệ thống tài chính chuyển tải số tiền này đến những người cần vốn. Số tiền nhàn rỗi là tài sản của người tiết kiệm nhưng nó lại là khoản nợ đối với người đi vay. Nếu tiết kiệm qua ngân hàng, thì ngân hàng sẽ trả cho người tiết kiệm một khoản tiền lãi do việc sử dụng vốn. Tương tự, nếu mua trái phiếu kho bạc, thì chính phủ phải trả người đầu tư một khoản tiền lãi cho việc sử dụng số tiền của nhà đầu tư. Có thể khái niệm lãi suất là giá cả mà người đi vay phải trả cho việc sử dụng vốn của người cho vay trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu gọi số tiền vay là tiền gốc thì một tỷ lệ phần trăm tính trên số tiền gốc mà người đi vay phải trả cho người cho vay được gọi lãi suất. Khi vay mượn vốn được thực hiện trong một thị trường tự do thì lãi suất phản ánh những thay đổi của thị trường. Lãi suất được xem là loại giá cơ bản của thị trường tài chính và có ảnh hưởng quan trọng đến các hoạt động kinh tế - tài chính. Có hai cách giải thích cho sự tồn tại của lãi suất:  Giá trị thời gian của tiền tệ: Khi chọn lựa, hầu hết mọi người thích có tiền trong hiện tại hơn là trong tương lai. Khi được yêu cầu để cho vay số tiền hiện tai của họ trong sự đổi lại một lời hứa trả lại số tiền đó trong tương lai thì người cho vay chỉ đồng ý với điều kiện họ được trả số tiền gốc mà họ đã cho vay. Thực tế cho thấy, lãi suất là sự thanh toán cho việc sử dụng tiền theo thời gian.  Chi phí cơ hội: Thay vì cho vay, thì người có tiền nhàn rỗi có thể sử dụng số tiền nhàn rỗi vào mục đích sinh lời khác. Trên cơ sở so sánh mức Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 129 sinh lợi của các hoạt động đầu tư thì người có tiền nhàn rỗi sẽ quyết định cho vay hay không cho vay. Như vậy, lãi suất có thể xem là chi phí cơ hội của việc sử dụng tiền theo thời gian. 6.4.2. Phân loại lãi suất * Căn cứ vào giá trị thực của tiền lãi thu được: Lãi suất được chia thành hai loại: Lãi suất danh nghĩa: Là loại lãi suất phải thanh toán. Giả sử, một hộ gia đình gởi một khoản tiền tiết kiệm 100 đôla vào ngân hàng với kỳ hạn 1 năm và mức tiền lãi là 10 đôla. Vào cuối năm số dư của họ là 110 đôla. Trong trường hợp này, lãi suất danh nghĩa là 10%/năm. Lãi suất thực: Là loại lãi suất đo lường sức mua của tiền lãi nhận được. Lãi suất thực được tính toán bằng việc điều chỉnh lãi suất danh nghĩa có tính đến lạm phát. Giả sử lạm phát của nền kinh tế là 10%/năm, như vậy số tiền 110 đôla vào cuối năm chỉ mua được một số lượng hàng hóa tương đương 100 đôla ở đầu năm. Trong trường hợp này, lãi suất thực là bằng 0. Nếu gọi ir là lãi suất thực in là lãi suất danh nghĩa và p là lạm phát thì lãi suất thực được tính như sau: ir = in – p Việc phân biệt lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực có ý nghĩa rất quan trọng. Lãi suất thực phản ánh chính xác thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận được hay chi phí thực của vay tiền. Lãi suất thực là chỉ số tốt hơn so với lãi suất danh nghĩa, trong một giai đoạn nào đó nếu như lãi suất danh nghĩa tăng lên, thì bạn cho rằng thị trường tín dụng đang trong trạng thái thắt chặt, bởi vì chi phí vay nợ đắt đỏ. Tuy nhiên, nếu như tính theo lãi suất thực thì suy luận của bạn là sai lầm.Theo tiêu chuẩn lãi suất thực, thì chi phí cho vay thực tế hoàn toàn thấp. * Căn cứ vào tính chất của các khoản vay: Dựa vào tính chất của các khoản vay, có thể chia lãi suất ra thành: Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 130 Lãi suất tiền gửi ngân hàng: Là loại lãi suất mà các ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào các loại tiền gửi: không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiết kiệm . Trật tự lãi suất tiền gửi được hình thành theo nguyên tắc: lãi suất tiền gửi có kỳ hạn > lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Lãi suất tín dụng ngân hàng: Là loại lãi suất mà người vay vốn phải trả cho ngân hàng khi vay vốn từ ngân hàng. Lãi suất tín dụng ngân hàng có nhiều loại tùy theo các loại hình vay: ngắn hạn, dài hạn; có tài sản đảm bảo, không có tài sản đảm bảo . Về nguyên tắc: lãi suất tín dụng ngân hàng > lãi suất tiền gửi ngân hàng; lãi suất cho vay dài hạn > lãi suất cho vay ngắn hạn; lãi suất cho vay tiêu dùng > lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh. Lãi suất chiết khấu: Là lãi suất được các ngân hàng thương mại áp dụng khi cho khách hàng vay nợ dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá khi chưa đến kỳ hạn thanh toán. Lãi suất chiết khấu được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng cho khách vay. Vậy, lãi suất chiết khấu là loại lãi suất trả trước mà người đi vay trả cho ngân hàng trước khi sử dụng tiền vay. Ví dụ, doanh nghiệp A đến ngân hàng xin chiết khấu một thương phiếu có mệnh giá 10.000 đôla, lãi suất chiết khấu 10%/năm, thời hạn 6 tháng. Vậy, ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay với số tiền là: 10.000 – (10.000 x 6%)/12% = 9.500 đôla Và ngân hàng đã thu lãi trước là: 10.0 – 9.500 = 500 đôla Lãi suất tái chiết khấu: Là lãi suất được ngân hàng trung ương áp dụng khi cho các ngân hàng thương mại dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá khi chưa đến kỳ hạn thanh toán. Lãi suất tái chiết khấu được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi cho các ngân hàng thương mại vay. Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 131 Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất cho vay giữa các ngân hàng thương mại trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành theo quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất này chịu sự chi phối bởi lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng thương mại sử dụng để xây dựng lãi suất kinh doanh. Hiện vẫn còn nhiều tranh luận về lãi suất cơ bản. Mỗi quốc gia có quy định về lãi suất cơ bản khác nhau. Ở Nhật, lãi suất cơ bản là lãi suất nhân hàng Trung ương Nhật bản quy định, nó là mức lãi suất cho vay thấp nhất. Ở Anh, Úc, lãi suất cơ bản là lãi suất do các ngân hàng tự xác định, thường là lãi suất áp dụng cho các khách hàng có mức rủi ro thấp nhất. Ở Malaysia, lãi suất cơ bản là lãi suất của các ngân hàng đứng đầu trên thị trường; dựa vào lãi suất này các ngân hàng thương mại khác cộng thêm % biên độ để xác định kinh doanh của mình. Ở Singapore, lãi suất cơ bản là lãi suất liên ngân hàng; Ở Mỹ, lãi suất tái chiết khấu của Fed là lãi suất cơ bản. Do mỗi công cụ nợ có cách tính trả lãi khác nhau, nên nếu có cùng một mức lãi suất thì số tiền cuối cùng mà nhà đầu tư nhận được từ việc đầu tư vào các công nợ cũng sẽ khác. Vì thế, cần thiết phải xây dựng các phép do lãi suất để qua đó cho phép xác định chính xác giá cả tín dụng; đồng thời giúp cho các nhà đầu tư biết được và lựa chọn nên đầu tư vào công cụ nợ nào sẽ có thu nhập tiền lời cao hơn. 6.5. Phƣơng pháp xác định lãi suất 6.5.1. Phương pháp tính lãi Có hai phương pháp tính lãi: lãi đơn và lãi kép. * Cách tính lãi đơn: Theo phương thức này, cứ mỗi một đôla cho vay, thì nhà đầu tư nhận được (l x i) tiền lãi. Nếu cho vay PV đôla thì nhà đầu tư nhận được PV x i. Cho đến khi đáo hạn thì nhà đầu tư thu về tiền gốc và lãi: FV = PV(l+i) Trong đó: Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 132 PV: Là tiền gốc ban đầu; i: Là lãi suất suốt trong kỳ cho vay; FV: Là tổng số tiền nhà đầu tư nhận được khi đáo hạn. Nếu như i* lãi suất tính theo tháng, thì công thức tính lãi đơn ở trên được viết thành: FV = PV(l + n x i*) Trong đó: n là số tháng trong kỳ cho vay. Phương thức tính lãi đơn thường được áp dụng cho các khoản tín dụng ngắn hạn truyền thống (vay thương mại, tiền gởi tiết kiệm .), cách tính toán đơn giản. Tuy nhiên, trong trường hợp các khoản tín dụng dài hạn, quy mô lớn, để đảm bảo công bằng, chính xác chi phí sử dụng vốn, cần phải sử dụng phương pháp tính lãi kép. * Cách tính lãi kép: Ví dụ: Nhà đầu tư A cho vay với số tiền PV và lãi suất i/tháng thời gian vay n tháng. Có thể khái quát công thức tính lãi kép như sau: Sau tháng thứ nhất người đi vay nhận được là: FV1 = PV(l+i) Sau tháng thứ hai: FV2 = FV1(l+i) = PV(l+i) 2 Sau tháng thứ ba: FV3 = FV2(l+i) = PV(l+i) 3 Cứ như vậy sau n tháng, tổng số tiền thu về sẽ là: FVn = FVn-1(l+i) = PV(l+i)* Theo cách tính lãi kép, tiền lãi của kỳ trước được cộng vào tiền gốc để tính tiền lãi của kỳ sau. Căn cứ khoa học của phương pháp này là người đi vay bắt đầu từ tháng thứ hai không chỉ sử dụng tiền gốc ban đầu mang còn cả tiền lãi phát sinh của tháng trước. Tiền lãi mà người cho vay nhận được bây giờ gồm hai phần. Phần thứ nhất là tiền lãi tính trên tiền gốc ban đầu (cố định); phần thứ hai là tiền lãi tính trên lãi suất phát sinh ở kỳ trước đó tăng dần qua các năm. Theo Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 133 đó, số vốn của người cho vay tang lên hàng tháng theo cấp số nhân với công bội là (l + i). 6.5.2. Hiện giá Khái niệm hiện giá cho phép chúng ta giải thích tại sao một đôla nhận được trong tương lai. Một đôla hôm nay có thể được đầu tư để kiếm lời, còn một đôla nhận được sau n năm từ bây giờ (hay hiện giá một đôla tương lai) có giá trị l / (l + i) n . Để xác định giá trị tương lai của một lượng tiền hiện tại chúng ta áp dụng công thức: FVn = PV X (l + i) n Trong đó, (l + i)n là hệ số giá trị tương lai (future value factor). Với bất kỳ số tiền hiện tại (PV), để tính giá trị tương lai của nó (FV) sau một khoảng thời gian xác định n, vói mức lãi suất cho trước i, chúng ta tính được hệ số giá trị tương lai rồi nhân với PV. Ngược lại, để tính giá trị hiện tại (PV) của một khoản tiền thu được trong tương lai (FV) sau một khoản thời gian n, chúng ta áp dụng công thức: PV = Trong đó: l / (l+i)n : Là hệ số giá trị hiện tại (present value factor). Trường hợp lãi suất không cố định, chúng ta phải sử dụng công thức sau để tính hiện giá: Phương pháp hiện giá rất hữu ích trong việc lựa chọn các công cụ tín dụng để đầu tư. Kỹ thuật hiện giá còn gọi là kỹ thuật chiết khấu các luồng tiền; và lãi suất được sử dụng để chiết khấu gọi là lãi suất chiết khấu. Qua kỹ thuật hiện giá, chúng ta thấy được giá trị hiện tại của các công cụ tín dụng trên thị trường với mức lãi suất i nào đó. Thông tin này giúp chung ta so sánh hai công cụ tín dụng có thời gian thanh toán khác nhau chẳng hạn như là trái phiếu chiết khấu và trái phiếu coupon Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 134 6.5.3. Lãi suất hoàn vốn Lãi suất hoàn vốn là loại lãi suất làm cân bằng hiện giá của tất cả khoản thu nhận được từ một công cụ nợ với giá trị hiện tại của nó. Để hiểu được lãi suất hoàn vốn, chúng ta xem xét một số công cụ nợ phổ biến trên thị trường tín dụng. Căn cứ vào cách thức trả lãi và tiền gốc, có thể chia các công cụ nợ thành bốn nhóm: nợ đơn, trái phiếu chiết khấu coupon và nợ thanh toán cố định. Các loại công cụ nợ khác nhau căn bản về kỳ hạn thanh toán (Timing ò payments). * Nợ đơn (Simple loan) Với khoản nợ đơn thì khi vay người vay nợ đồng ý trả cho người cho vay theo phương thức; tiền gốc cộng với tiền lãi khi đáo hạn. Ví dụ, Ngân hàng ACB cung cấp cho công ty A một khoản nợ đơn 10.000 đôla với kỳ hạn 1 năm. Sau một năm công ty A phải trả cho Ngân hàng ACB tổng số tiền là: 11.000 đôla (tiền gốc 10.000 đôla và tiền lãi 1.000 đôla). Dòng thời gian của nợ đơn được biểu thị như sau: Công ty A trả 11.000 đôla cho Ngân hàng ACB Năm Công ty A nhận 10.000 đôla từ Ngân hàng ACB Dựa vào công thức tính lãi đơn, chúng ta có thể diễn tả nghiệp vụ trên bằng công thức như sau: 10.000 = Để tính lãi suất hoàn vốn i*, chúng ta biến đổi công trên: i = Qua kết quả tính toán trên ta rút ra nhận xét: đối với nợ đơn, lãi suất đơn bằng với lãi suất hoàn vốn. $ $ Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 135 * Trái phiếu chiết khấu Đối với loại trái phiếu chiết khấu, người đi vay trả cho người cho vay một khoản thanh toán đơn bằng đúng mệnh giá của trái phiếu. Sự tính toán lãi suất hoàn vốn đối với trái phiếu chiết khấu giống như nợ đơn. Trong bối cảnh khác, lãi suất hoàn vốn còn được gọi là lãi suất nội hoàn (Internal rate of return). Ví dụ, công ty A phát hành trái phiếu chiết khấu có thời gian một năm với mệnh giá là 10.000 đôla. Khi đó công ty A nhận được số tiền vay là 9.091 đôla và thanh toán 10.000 đôla sau một năm. Có thể biểu thị dòng thời gian đối với trái phiếu chiết khấu giống như nợ đơn. Công ty A trả 10.000 đôla cho Ngân hàng ACB Năm Công ty A nhận 9.091 đôla từ Ngân hàng ACB Dựa vào công thức tính lãi đơn, có thể khái quát nghiệp vụ trên theo công thức sau: Suy ra: Vậy, lãi suất hoàn vốn i* là: 9.99% Từ ví dụ có thể khái quát công thức tính lãi suất hoàn vốn của trái phiếu chiết khấu có thời hạn 1 năm ( ) như sau: Trong đó: F: Mệnh giá trái phiếu; Tài chính tiền tệ Chƣơng 6: Tín dụng và lãi suất KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH 136 P: Giá hiện thành của trái phiếu chiết khấu. Nếu trái phiếu chiết khấu có thời gian n năm, thì lãi suất hoàn vốn được tính như sau: Từ công thức tính lãi kép ta suy ra: Biến đổi công thức trên ta tính được lãi suất hoàn vốn √ * Trái phiếu coupon Phát hành trái phiếu coupon, người đi vay thực hiện phương thức thanh toán nhiều lần số tiền lãi theo định kỳ chẳng hạn như nửa năm hoặc một năm một lần và thanh toán tiền gốc khi đáo hạn. Một trái phiếu coupon phải ghi rõ ngày đáo hạn, mệnh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_tai_chinh_tien_te_nganh_ke_toan_doanh_nghiep.pdf
Tài liệu liên quan